Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Nửa Vui Nửa Khổ



                                                                                Chu Thập
Good Friday 2011

Tôi thích mùa Thu ở Úc. Không nóng như mùa Hè, không lạnh như mùa Đông, không thiếu những ngày nắng ấm, cũng có chút “hoa hòe, hoa sói” như mùa Xuân nhưng lại lãng mạn và quyến rũ vì có lá vàng rơi và những tia nắng cuối ngày thật rực rỡ. Nhưng thực tình mà nói, tôi lại sợ mùa Thu. Năm nào cũng vậy, có đề phòng đến đâu, có chích ngừa cảm cúm bao nhiêu, tôi cũng vẫn bị vật cho tơi tả. Không dị ứng với hoa cỏ thì cũng ho hen, cảm cúm.
Bước vào mùa Thu của cuộc đời, tôi cũng đành phải chấp nhận những giới hạn của thân phận con người và định luật của cuộc sống, rồi tự an ủi: bệnh tật yếu đau cũng là một thành tố cần thiết trong nhịp sống. Tuy không phải là một Phật tử, nhưng tôi cũng nghiệm ra rằng sống với bệnh tật và nhứt là cảm cúm cũng có nghĩa là chấp nhận sống chung hòa bình với hằng triệu triệu vi khuẩn cả bạn lẫn thù trong một tư thế “đối tác” như thế nào để hai bên cùng có lợi.
Thực ra, đây không phải là tư tưởng của riêng tôi, mà là của tác giả Jennifer Ackerman trong cuốn sách có tựa đề “Ah-Choo!: The Uncommon Life of Your Common Cold” (tạm dịch: Hắt xì, cuộc sống không bình thường của cơn cảm mạo thông thường của bạn) được trích đăng trong tạp chí Reader’s Digest. Theo tác giả, cảm cúm cũng có lợi cho cuộc sống. Cảm cúm buộc chúng ta phải giảm lại các sinh hoạt. Thông thường nhứt là các sinh hoạt nơi trường học, trong sở làm, trong công nghệ. Đôi khi thiên nhiên buộc chúng ta phải thay đổi thói quen và tạm hưu chiến trước những áp lực của cuộc sống hàng ngày.
Bị nhức đầu sổ mũi phải nằm nhà để nghỉ ngơi vài ngày có thể là một điều tốt cho sức khỏe. Được thay đổi nhịp sống, được uống thuốc, được đọc sách và nếu may mắn hơn, được bạn bè, bác sĩ, người thân quan tâm chăm sóc…đó cũng là một cái “thú” trời cho cần phải tận hưởng! Có người đã từng phát biểu: “Bệnh để biết ai thương mình!”
Ta cũng có thể xem những cơn cảm mạo như một cái “van” an toàn. Thỉnh thoảng cũng cần phải mở cái van ấy để xả bớt cái sú báp của áp lực công việc, bệnh tật, lo lắng, trầm cảm, cao máu.
Khoa học thường thức cũng mách bảo ta rằng những “ký sinh” chung sống với ta cũng làm cho ta thêm mạnh mẽ và tinh khôn hơn. Chúng làm cho hệ thống miễn nhiễm của ta an toàn hơn và làm cho hệ thống phòng thủ của ta kiên cố hơn.
Đó là nói đến “ích lợi” của cảm cúm đối với bản thân từng người. Nhìn xa hơn, tác giả Ackerman còn cho rằng vi khuẩn, có thể góp phần làm cho khoa học tiến bộ. Tại một số quốc gia, vi khuẩn gây bệnh đậu mùa được xem là “sinh vật quý hiếm” cần được bảo tồn; người ta lại tranh luận với nhau xem có nên bảo tồn số vi khuẩn được cất giữ cẩn thận trong các phòng thí nghiệm tại Hoa kỳ và Nga không. Trong thế kỷ 20, bệnh đậu mùa đã sát hại trên nửa tỷ người trên khắp thế giới. Một số chuyên gia, kể cả Tổ chức Y tế Thế giới, lập luận rằng tiêu hủy toàn diện các vi khuẩn gây bệnh là cách thế duy nhứt để bệnh tật không tái diễn. Nhưng cũng không thiếu những người lại cho rằng phá hủy mọi vết tích của nó sẽ có nghĩa là đánh mất mọi sự hiểu biết về những hoạt động của chúng và tác động của nó đối với hệ thống miễn nhiễm của con người. Cuối cùng, người ta đã đi đến quyết định bằng mọi giá phải bảo tồn chúng.
Theo tác giả, cảm cúm thông thường cũng giống như một thứ bà con xa đến thăm ta mỗi năm một hay hai lần, tự nhiên vào nhà mà không cần được mời, buộc ta phải rút lui vào phòng riêng của mình. Nhưng nó cũng nhắc nhở ta về những gốc rễ sâu xa của ta, về gia sản chung của ta với nó và mang lại cho ta một ít thông tin mà ta sẽ cần đến trong tương lai. (x.Reader’s Digest, ấn bản Úc châu, số tháng 2 năm 2011)
Cách suy nghĩ “tích cực” trên đây cũng chiếu rọi chút ánh sáng vào cái nhìn của tôi đối với những “bệnh tật tinh thần”, đặc biệt là nỗi buồn trong cuộc sống. Không phải là thiên thần thì trên cõi đời này chẳng có ai tránh khỏi buồn phiền. Không buồn da diết, buồn triền miên, không “buồn muốn chết” thì cũng man mác buồn. Đôi lúc vớ vẩn cũng “tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn”.
Ai mà chẳng thích vui hơn buồn. Ai mà chẳng muốn hạnh phúc hơn bất hạnh. Nhưng thỉnh thoảng cũng cần phải thấy rằng những khi bị nhận chìm trong những đợt sóng của đau khổ, phiền muộn, thất vọng, hoài nghi hay chán nản cũng là một “cơ hội tốt” cho đời sống. Bởi lẽ những cảm xúc và tâm trạng ấy cần thiết để ta “biết mình” hơn và nhứt là “thấm thía” thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc cũng giống như dưỡng khí ta hít thở từng giây từng phút. Có một lần thiếu dưỡng khí, ngộp thở ta mới thấy dưỡng khí hiện hữu và cần cho sự sống biết chừng nào. Cũng vậy, ta chỉ cảm nhận được hạnh phúc và thèm được hạnh phúc khi phải trải qua những lúc muộn phiền, trống rỗng. Khi buồn ngủ thì một tấm chiếu manh cũng đủ để mang lại một giấc ngủ thần tiên. Giữa cơn đói tột cùng, một hạt cơm chẳng quý hơn vàng bạc sao?  Đó là một trong những nghịch lý lớn nhứt trong cuộc đời: có mất mát, thua thiệt ta mới cảm thấy thèm khát!  Suy nghĩ rộng ra, mọi sự trong cuộc đời đều diễn ra theo định luật nghịch lý đó: mất để được, thua để thắng, chết để sống!
Là một tín hữu Kitô, mỗi năm tôi thường dừng lại để suy nghĩ về định luật này nhân ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay còn gọi là Good Friday (năm nay rơi vào hôm nay), ngày mà trên 2 tỷ tín hữu Kitô trên toàn thế giới tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết nào cũng là một mất mát. Trong chiến trường thì rõ ràng cái chết là một thua thiệt. Với con mắt bình thường thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại ê chề, chấm dứt một sự nghiệp lẽ ra phải rất lẫy lừng của một nhà lãnh đạo có một sức thu hút khủng khiếp. Nhưng với Kitô giáo thì cái chết ấy là một chiến thắng: chiến thắng của lẽ phải trên gian tà, của sự thật trên dối trá, của tình thương trên hận thù, của sự sống trên sự chết. Từ hai ngàn năm qua, muốn hay không, không ai có thể phủ nhận rằng cái chết của Chúa Giêsu đã làm thay đổi bộ mặt thế giới. Với cái chết ấy, Ngài đã chiếu rọi ánh sáng, hy vọng, lạc quan vào tăm tối của khổ đau, thất vọng, buồn phiền trong cuộc sống của không biết bao nhiêu người trong lịch sử nhân loại từ hai ngàn năm qua và sẽ mãi mãi mang lại niềm an ủi cho những ai đang chìm đắm trong muộn phiền.
Suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, tôi không thể không liên tưởng đến cái chết của bao nhiêu người trên thế giới ngày nay đã và đang chết cho công lý, sự thật và tình thương. Họ là nạn nhân của những chế độ độc tài luôn chối bỏ và chà đạp mọi quyền cơ bản của con người. Họ là những người ngày ngày đang chết dần chết mòn trong các nhà tù vì niềm tin tôn giáo, vì lý tưởng dân chủ, nhân quyền. Họ là những người đang quên mình để phục vụ người khác đến độ sẵn sàng hy sinh chính mạng sống của mình…Những cái chết như thế lẽ nào không thể vinh danh như những chiến thắng?
Suy niệm về định luật “mất để được, chết để sống”, tôi cũng không thể không nghĩ đến dân tộc Nhựt bản trong cơn đại nạn 11 tháng 3 vừa qua. Giữa những khổ đau ngút ngàn, thế giới đã thấy nơi người Nhựt những đức tính cao quý khó tìm thấy được nơi những dân tộc khác. Dường như dân tộc này xem tai họa, mất mát, khổ đau như một bàn đạp để vươn lên cao hơn. Sau trận động đất năm 1923 tại Kanto làm cho trên 100 ngàn người thiệt mạng và gây ra bao nhiêu thiệt hại vật chất, Nhựt Bản biến thành một cường quốc đáng nể sợ. Sau những tàn phá khủng khiếp của hai trái bom nguyên tử dội xuống Hiroshima và Nagasaki năm 1945, Nhựt Bản lại vùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Từ đổ nát, họ đã xây dựng lại và xây dựng lại tốt đẹp hơn. Trong tro tàn, họ tìm thấy lửa của hy vọng. Trong cái chết họ nhìn thấy mầm sống.
Nhìn lại lịch sử của dân tộc Nhựt Bản tôi không thể không liên tưởng đến một trong những nhà văn nổi tiếng nhứt của nước này là ông Shusaku Endo. Chào đời trong một gia đình công giáo Nhựt bản tại Mãn châu dưới thời Nhựt bản chiếm đóng Trung quốc, ông bị người Trung Hoa thù ghét. Trở về Nhựt là nơi Kitô giáo chiếm không tới một phần trăm dân số, ông lại một lần nữa bị xem như người ngoại lai. Trong lớp học, ông bị các học sinh khác chế diễu vì theo tà đạo Tây phương. Thế chiến Thứ Hai lại càng gia tăng cái cảm giác bị ruồng bỏ ngay trên quê hương mình; ông luôn luôn nhìn sang Tây Phương như quê hương tinh thần của mình.
Sau Thế chiến Thứ Hai, ông sang Pháp để nghiên cứu về một số nhà văn công giáo nổi tiếng như Francois Mauriac và Georges Bernanos. Mỉa mai thay, tại đây, ông lại cũng bị khinh miệt, nhưng không  phải vì tôn giáo, mà vì chủng tộc. Như vậy, không chỉ bị tẩy chay trên đất mẹ, mà còn bị ruồng bỏ trên quê hương tinh thần, Endo trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về niềm tin. Trước khi hồi hương, ông quyết định sang Palestine để tìm hiểu tận nguồn cuộc đời của Chúa Giêsu. Tại đây, ông khám phá ra rằng cả cuộc sống dương thế của Ngài, Chúa Giêsu cũng đã là một con người bị ruồng bỏ. Trước kia, ông ngưỡng mộ sức mạnh của nền văn minh Tây phương qua các phương tiện kỹ thuật, qua các ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ, qua những hình ảnh oai nghiêm của Chúa Kitô Vua, vốn trong thực chất là phóng ảnh của vinh quang và sức mạnh của đế quốc La mã. Giờ đây, ông mới nghiệm thấy rằng con người đích thực của Chúa Giêsu lại là một con người đau khổ, bị khước từ đến độ bị treo lên thập giá. Ông cho rằng Kitô giáo, sau bao nhiêu năm truyền đạo và với chứng từ của không biết bao nhiêu vị tử đạo, đã không thể bén rễ trên đất Phù Tang bởi vì người Nhựt chỉ nhìn vào Kitô giáo xuyên qua những hào nhoáng của một nền văn minh Kitô giáo được thể hiện qua các nghi lễ trang trọng, những ngôi thánh đường vĩ đại, những nhạc phẩm cổ điển bất hủ...Theo ông, người Nhựt không nhìn ra được gương mặt đích thực của Chúa Giêsu và của Kitô giáo.
Hình ảnh của một Chúa Giêsu chịu đau khổ, cộng với kinh nghiệm bản thân được Endo đưa vào các tác phẩm của ông đã biến ông thành nhà văn Nhựt bản được thế giới biết đến nhiều nhứt. Các tác phẩm của ông được dịch sang ít nhứt 25 thứ tiếng.
Người dân Nhựt bản thích đọc văn của Endo, bởi vì qua sứ điệp “thập giá” của Kitô giáo được ông giới thiệu trong các tác phẩm, họ cũng nhận ra được chính điều làm nên sức mạnh của dân tộc: thất bại, mất mát, khổ đau…luôn là khởi đầu của một cơ may tốt đẹp hơn.
“Thập giá” luôn được xem như minh triết đặc thù của Kitô giáo. Thật ra, đối với mọi người, dù thuộc tôn giáo hay văn hóa nào, “thập giá” hay có thể gọi là những gì “ngoài ý muốn” cũng vẫn là một phần thiết yếu của cuộc sống. Thập giá vẫn là con đường dẫn đến vinh quang, chiến thắng và hạnh phúc. Chấp nhận cuộc sống với mọi khía cạch cũng có nghĩa là chấp nhận “một nửa vui, một nửa khổ” của cuộc sống vậy.
Trong “Bài thơ một nửa”, Lý Mật Am có khuyên như sau:
“Tôi đã thấy già nửa kiếp phù sinh này rồi.
Chữ “nửa” đó là công dụng vô biên.
Có hưởng nửa tuổi trời rồi mới cảm được hết cái vui nhàn nhã trong một thế giới rộng rãi khai triển giữa trời và đất.
Sống có vườn tược ở nửa đường lên núi, nửa đường xuống sông,
Nửa đọc sách, nửa làm ruộng, nửa buôn bán,
Nửa kẻ sĩ, nửa là bà con với bình dân.
……
Tâm tình tôi nửa Phật nửa Thần tiên
Tên tuổi nửa vinh hiển nửa tối tăm,
Một nửa nghĩ tới Trời,
Còn một nửa lo việc nhân gian…
Có không đầy một nửa thì mong có thêm
Có quá một nửa thì quá chán và lo lắng
Cuộc đời trăm năm nửa vui nửa khổ
Thì hưởng một nửa là thích đáng hơn cả.”
(trích “Một quan niệm về Sống Đẹp” của Lâm Ngữ Đường, bản dịch Nguyễn Hiến Lê)
Phần tôi đã qua thời “nửa lên đồi” và đang vào thời “nửa xuống dốc”, tôi thấy mình may mắn vì không những vẫn còn thấy “màu xanh hy vọng” mà lại có thêm cả “nhìn lại mình đời đã xanh rêu”.
Ngày xưa háo hức với những tà áo “hippy” thế nào thì bây giờ, tôi cũng thích thú theo dõi “màu thời gian” đang “minh họa” trên cơ thể mình như vậy.
Cũng như bài viết này, một nửa để chia với bạn, nửa kia để…an ủi mình.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét