Chu Thập
Good Friday 2011
Bước vào mùa Thu của cuộc đời,
tôi cũng đành phải chấp nhận những giới hạn của thân phận con người và định luật
của cuộc sống, rồi tự an ủi: bệnh tật yếu đau cũng là một thành tố cần thiết
trong nhịp sống. Tuy không phải là một Phật tử, nhưng tôi cũng nghiệm ra rằng sống
với bệnh tật và nhứt là cảm cúm cũng có nghĩa là chấp nhận sống chung hòa bình
với hằng triệu triệu vi khuẩn cả bạn lẫn thù trong một tư thế “đối tác” như thế
nào để hai bên cùng có lợi.
Thực ra, đây không phải là tư
tưởng của riêng tôi, mà là của tác giả Jennifer Ackerman trong cuốn sách có tựa
đề “Ah-Choo!: The Uncommon Life of Your Common Cold” (tạm dịch: Hắt xì, cuộc sống
không bình thường của cơn cảm mạo thông thường của bạn) được trích đăng trong tạp
chí Reader’s Digest. Theo tác giả, cảm cúm cũng có lợi cho cuộc sống. Cảm cúm
buộc chúng ta phải giảm lại các sinh hoạt. Thông thường nhứt là các sinh hoạt
nơi trường học, trong sở làm, trong công nghệ. Đôi khi thiên nhiên buộc chúng
ta phải thay đổi thói quen và tạm hưu chiến trước những áp lực của cuộc sống
hàng ngày.
Bị nhức đầu sổ mũi phải nằm
nhà để nghỉ ngơi vài ngày có thể là một điều tốt cho sức khỏe. Được thay đổi nhịp
sống, được uống thuốc, được đọc sách và nếu may mắn hơn, được bạn bè, bác sĩ,
người thân quan tâm chăm sóc…đó cũng là một cái “thú” trời cho cần phải tận hưởng!
Có người đã từng phát biểu: “Bệnh để biết ai thương mình!”
Ta cũng có thể xem những cơn cảm
mạo như một cái “van” an toàn. Thỉnh thoảng cũng cần phải mở cái van ấy để xả bớt
cái sú báp của áp lực công việc, bệnh tật, lo lắng, trầm cảm, cao máu.
Khoa học thường thức cũng mách
bảo ta rằng những “ký sinh” chung sống với ta cũng làm cho ta thêm mạnh mẽ và
tinh khôn hơn. Chúng làm cho hệ thống miễn nhiễm của ta an toàn hơn và làm cho
hệ thống phòng thủ của ta kiên cố hơn.
Đó là nói đến “ích lợi” của cảm
cúm đối với bản thân từng người. Nhìn xa hơn, tác giả Ackerman còn cho rằng vi
khuẩn, có thể góp phần làm cho khoa học tiến bộ. Tại một số quốc gia, vi khuẩn
gây bệnh đậu mùa được xem là “sinh vật quý hiếm” cần được bảo tồn; người ta lại
tranh luận với nhau xem có nên bảo tồn số vi khuẩn được cất giữ cẩn thận trong
các phòng thí nghiệm tại Hoa kỳ và Nga không. Trong thế kỷ 20, bệnh đậu mùa đã
sát hại trên nửa tỷ người trên khắp thế giới. Một số chuyên gia, kể cả Tổ chức
Y tế Thế giới, lập luận rằng tiêu hủy toàn diện các vi khuẩn gây bệnh là cách
thế duy nhứt để bệnh tật không tái diễn. Nhưng cũng không thiếu những người lại
cho rằng phá hủy mọi vết tích của nó sẽ có nghĩa là đánh mất mọi sự hiểu biết về
những hoạt động của chúng và tác động của nó đối với hệ thống miễn nhiễm của
con người. Cuối cùng, người ta đã đi đến quyết định bằng mọi giá phải bảo tồn
chúng.
Theo tác giả, cảm cúm thông
thường cũng giống như một thứ bà con xa đến thăm ta mỗi năm một hay hai lần, tự
nhiên vào nhà mà không cần được mời, buộc ta phải rút lui vào phòng riêng của
mình. Nhưng nó cũng nhắc nhở ta về những gốc rễ sâu xa của ta, về gia sản chung
của ta với nó và mang lại cho ta một ít thông tin mà ta sẽ cần đến trong tương
lai. (x.Reader’s Digest, ấn bản Úc châu, số tháng 2 năm 2011)
Cách suy nghĩ “tích cực” trên
đây cũng chiếu rọi chút ánh sáng vào cái nhìn của tôi đối với những “bệnh tật
tinh thần”, đặc biệt là nỗi buồn trong cuộc sống. Không phải là thiên thần thì
trên cõi đời này chẳng có ai tránh khỏi buồn phiền. Không buồn da diết, buồn
triền miên, không “buồn muốn chết” thì cũng man mác buồn. Đôi lúc vớ vẩn cũng “tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn”.
Ai mà chẳng thích vui hơn buồn.
Ai mà chẳng muốn hạnh phúc hơn bất hạnh. Nhưng thỉnh thoảng cũng cần phải thấy
rằng những khi bị nhận chìm trong những đợt sóng của đau khổ, phiền muộn, thất
vọng, hoài nghi hay chán nản cũng là một “cơ hội tốt” cho đời sống. Bởi lẽ những
cảm xúc và tâm trạng ấy cần thiết để ta “biết mình” hơn và nhứt là “thấm thía” thế
nào là hạnh phúc. Hạnh phúc cũng giống như dưỡng khí ta hít thở từng giây từng
phút. Có một lần thiếu dưỡng khí, ngộp thở ta mới thấy dưỡng khí hiện hữu và cần
cho sự sống biết chừng nào. Cũng vậy, ta chỉ cảm nhận được hạnh phúc và thèm được
hạnh phúc khi phải trải qua những lúc muộn phiền, trống rỗng. Khi buồn ngủ thì
một tấm chiếu manh cũng đủ để mang lại một giấc ngủ thần tiên. Giữa cơn đói tột
cùng, một hạt cơm chẳng quý hơn vàng bạc sao?
Đó là một trong những nghịch lý lớn nhứt trong cuộc đời: có mất mát,
thua thiệt ta mới cảm thấy thèm khát!
Suy nghĩ rộng ra, mọi sự trong cuộc đời đều diễn ra theo định luật nghịch
lý đó: mất để được, thua để thắng, chết để sống!
Là một tín hữu Kitô, mỗi năm
tôi thường dừng lại để suy nghĩ về định luật này nhân ngày Thứ Sáu Tuần Thánh
hay còn gọi là Good Friday (năm nay rơi vào hôm nay), ngày mà trên 2 tỷ tín hữu
Kitô trên toàn thế giới tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết nào cũng
là một mất mát. Trong chiến trường thì rõ ràng cái chết là một thua thiệt. Với
con mắt bình thường thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại ê
chề, chấm dứt một sự nghiệp lẽ ra phải rất lẫy lừng của một nhà lãnh đạo có một
sức thu hút khủng khiếp. Nhưng với Kitô giáo thì cái chết ấy là một chiến thắng:
chiến thắng của lẽ phải trên gian tà, của sự thật trên dối trá, của tình thương
trên hận thù, của sự sống trên sự chết. Từ hai ngàn năm qua, muốn hay không,
không ai có thể phủ nhận rằng cái chết của Chúa Giêsu đã làm thay đổi bộ mặt thế
giới. Với cái chết ấy, Ngài đã chiếu rọi ánh sáng, hy vọng, lạc quan vào tăm tối
của khổ đau, thất vọng, buồn phiền trong cuộc sống của không biết bao nhiêu người
trong lịch sử nhân loại từ hai ngàn năm qua và sẽ mãi mãi mang lại niềm an ủi
cho những ai đang chìm đắm trong muộn phiền.
Suy niệm về cái chết của Chúa
Giêsu, tôi không thể không liên tưởng đến cái chết của bao nhiêu người trên thế
giới ngày nay đã và đang chết cho công lý, sự thật và tình thương. Họ là nạn
nhân của những chế độ độc tài luôn chối bỏ và chà đạp mọi quyền cơ bản của con
người. Họ là những người ngày ngày đang chết dần chết mòn trong các nhà tù vì
niềm tin tôn giáo, vì lý tưởng dân chủ, nhân quyền. Họ là những người đang quên
mình để phục vụ người khác đến độ sẵn sàng hy sinh chính mạng sống của mình…Những
cái chết như thế lẽ nào không thể vinh danh như những chiến thắng?
Suy niệm về định luật “mất để
được, chết để sống”, tôi cũng không thể không nghĩ đến dân tộc Nhựt bản trong
cơn đại nạn 11 tháng 3 vừa qua. Giữa những khổ đau ngút ngàn, thế giới đã thấy
nơi người Nhựt những đức tính cao quý khó tìm thấy được nơi những dân tộc khác.
Dường như dân tộc này xem tai họa, mất mát, khổ đau như một bàn đạp để vươn lên
cao hơn. Sau trận động đất năm 1923 tại Kanto làm cho trên 100 ngàn người thiệt
mạng và gây ra bao nhiêu thiệt hại vật chất, Nhựt Bản biến thành một cường quốc
đáng nể sợ. Sau những tàn phá khủng khiếp của hai trái bom nguyên tử dội xuống
Hiroshima và Nagasaki năm 1945, Nhựt Bản lại vùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Từ đổ nát, họ đã xây dựng lại và xây dựng lại tốt đẹp hơn. Trong tro tàn, họ
tìm thấy lửa của hy vọng. Trong cái chết họ nhìn thấy mầm sống.
Nhìn lại lịch sử của dân tộc
Nhựt Bản tôi không thể không liên tưởng đến một trong những nhà văn nổi tiếng
nhứt của nước này là ông Shusaku Endo. Chào đời trong một gia đình công giáo Nhựt
bản tại Mãn châu dưới thời Nhựt bản chiếm đóng Trung quốc, ông bị người Trung
Hoa thù ghét. Trở về Nhựt là nơi Kitô giáo chiếm không tới một phần trăm dân số,
ông lại một lần nữa bị xem như người ngoại lai. Trong lớp học, ông bị các học
sinh khác chế diễu vì theo tà đạo Tây phương. Thế chiến Thứ Hai lại càng gia
tăng cái cảm giác bị ruồng bỏ ngay trên quê hương mình; ông luôn luôn nhìn sang
Tây Phương như quê hương tinh thần của mình.
Sau Thế chiến Thứ Hai, ông
sang Pháp để nghiên cứu về một số nhà văn công giáo nổi tiếng như Francois
Mauriac và Georges Bernanos. Mỉa mai thay, tại đây, ông lại cũng bị khinh miệt,
nhưng không phải vì tôn giáo, mà vì chủng
tộc. Như vậy, không chỉ bị tẩy chay trên đất mẹ, mà còn bị ruồng bỏ trên quê
hương tinh thần, Endo trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về niềm tin. Trước
khi hồi hương, ông quyết định sang Palestine để tìm hiểu tận nguồn cuộc đời của
Chúa Giêsu. Tại đây, ông khám phá ra rằng cả cuộc sống dương thế của Ngài, Chúa
Giêsu cũng đã là một con người bị ruồng bỏ. Trước kia, ông ngưỡng mộ sức mạnh của
nền văn minh Tây phương qua các phương tiện kỹ thuật, qua các ngôi thánh đường
nguy nga tráng lệ, qua những hình ảnh oai nghiêm của Chúa Kitô Vua, vốn trong
thực chất là phóng ảnh của vinh quang và sức mạnh của đế quốc La mã. Giờ đây,
ông mới nghiệm thấy rằng con người đích thực của Chúa Giêsu lại là một con người
đau khổ, bị khước từ đến độ bị treo lên thập giá. Ông cho rằng Kitô giáo, sau
bao nhiêu năm truyền đạo và với chứng từ của không biết bao nhiêu vị tử đạo, đã
không thể bén rễ trên đất Phù Tang bởi vì người Nhựt chỉ nhìn vào Kitô giáo
xuyên qua những hào nhoáng của một nền văn minh Kitô giáo được thể hiện qua các
nghi lễ trang trọng, những ngôi thánh đường vĩ đại, những nhạc phẩm cổ điển bất
hủ...Theo ông, người Nhựt không nhìn ra được gương mặt đích thực của Chúa Giêsu
và của Kitô giáo.
Hình ảnh của một Chúa Giêsu chịu
đau khổ, cộng với kinh nghiệm bản thân được Endo đưa vào các tác phẩm của ông
đã biến ông thành nhà văn Nhựt bản được thế giới biết đến nhiều nhứt. Các tác
phẩm của ông được dịch sang ít nhứt 25 thứ tiếng.
Người dân Nhựt bản thích đọc văn
của Endo, bởi vì qua sứ điệp “thập giá” của Kitô giáo được ông giới thiệu trong
các tác phẩm, họ cũng nhận ra được chính điều làm nên sức mạnh của dân tộc: thất
bại, mất mát, khổ đau…luôn là khởi đầu của một cơ may tốt đẹp hơn.
“Thập giá” luôn được xem như
minh triết đặc thù của Kitô giáo. Thật ra, đối với mọi người, dù thuộc tôn giáo
hay văn hóa nào, “thập giá” hay có thể gọi là những gì “ngoài ý muốn” cũng vẫn
là một phần thiết yếu của cuộc sống. Thập giá vẫn là con đường dẫn đến vinh
quang, chiến thắng và hạnh phúc. Chấp nhận cuộc sống với mọi khía cạch cũng có
nghĩa là chấp nhận “một nửa vui, một nửa
khổ” của cuộc sống vậy.
Trong “Bài thơ một nửa”, Lý Mật Am có khuyên như sau:
“Tôi
đã thấy già nửa kiếp phù sinh này rồi.
Chữ “nửa”
đó là công dụng vô biên.
Có hưởng
nửa tuổi trời rồi mới cảm được hết cái vui nhàn nhã trong một thế giới rộng rãi
khai triển giữa trời và đất.
Sống
có vườn tược ở nửa đường lên núi, nửa đường xuống sông,
Nửa đọc
sách, nửa làm ruộng, nửa buôn bán,
Nửa kẻ
sĩ, nửa là bà con với bình dân.
……
Tâm
tình tôi nửa Phật nửa Thần tiên
Tên
tuổi nửa vinh hiển nửa tối tăm,
Một nửa
nghĩ tới Trời,
Còn một
nửa lo việc nhân gian…
Có
không đầy một nửa thì mong có thêm
Có
quá một nửa thì quá chán và lo lắng
Cuộc
đời trăm năm nửa vui nửa khổ
Thì
hưởng một nửa là thích đáng hơn cả.”
(trích “Một quan niệm về Sống
Đẹp” của Lâm Ngữ Đường, bản dịch Nguyễn Hiến Lê)
Phần tôi đã qua thời “nửa lên
đồi” và đang vào thời “nửa xuống dốc”, tôi thấy mình may mắn vì không những vẫn
còn thấy “màu xanh hy vọng” mà lại có thêm cả “nhìn lại mình đời đã xanh rêu”.
Ngày xưa háo hức với những tà
áo “hippy” thế nào thì bây giờ, tôi cũng thích thú theo dõi “màu thời gian”
đang “minh họa” trên cơ thể mình như vậy.
Cũng như bài viết này, một nửa
để chia với bạn, nửa kia để…an ủi mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét