Chu Thập
15/2/11
Tháng 2 năm
1986, tôi tận mắt chứng kiến cuộc cách mạng “sức mạnh quần chúng” lật đổ nhà độc
tài Ferdinand Marcos tại Phi luật tân. Hai mươi lăm năm sau, tháng 2 năm nay 2011,
tôi theo dõi hồi hộp từng phút cuộc nổi dậy của dân chúng Ai cập cho đến ngày tổng
thống Bosni Mubarak tuyên bố từ chức và ra đi. Lần nào tôi cũng thấy vui, vui
như thể chiến thắng của cuộc cách mạng tại hai nước này cũng là của chính mình.
Bởi lẽ cứ bớt đi được một chế độ độc tài thì thế giới này trở nên một chỗ tốt đẹp
hơn, thông thoáng hơn và đáng sống hơn.
Vui trước sự
thành công của các cuộc cách mạng, tôi cũng cảm thấy “tội nghiệp” và ái ngại
cho những nhà độc tài phải cuốn gói ra đi trong nhục nhã. Khi gia đình nhà độc
tài Marcos ra đi, dân chúng Phi luật tân, đa số là dân nghèo, đã tuốn đến dinh
tổng thống chỉ để xem cái tủ đựng trên hai ngàn đôi giày của bà Imelda Marcos
và cuộc sống giàu sang của gia đình nhà độc tài. Không biết dân chúng Ai cập có
đến tận bờ Biển Đỏ để chiêm ngắm trung tâm nghỉ mát xa hoa của gia đình ông
Mubarak không. Nhưng chắc chắc, người Ai cập nào cũng biết rằng trong 29 năm
cai trị bằng bàn tay sắt, ông đã vơ vét cho mình một tài sản kết xù. Có người ước
tính tài sản của gia đình ông lên gần 70 tỷ Mỹ kim. Trong một quốc gia mà đa số
dân chúng vẫn còn phải sống mỗi ngày với lợi tức ít hơn 2 Mỹ kim chia theo đầu
người thì số tiền ấy chỉ có thể là tiền “ăn cướp” mà thôi. Thành ra, cũng như tại
Tunisia, cuộc nổi dậy của người dân Ai cập
trong 18 ngày liền được thúc đẩy không ngoài một động lực nào khác hơn là được
thoát cảnh nghèo đói. Độc tài đẻ ra và được nuôi dưỡng bằng tham nhũng. Tham
nhũng tạo ra nghèo đói. Nghèo đói sinh ra bất mãn. Bất mãn làm bùng nổ cách mạng.Và
dĩ nhiên, cách mạng thành công thì số phận của nhà độc tài nào cũng giống nhau:
không bị bắt mang ra xét xử thì cũng ra đi trong nhục nhã và thường không hưởng
được số tài sản mình vơ vét được. Và hầu như, chẳng có nhà độc tài nào sau khi
ra đi còn có cơ hội để hưởng những ngày an nhàn mãn đời mà lẽ ra họ phải được.
Tạp chí Time
trong số ra ngày 14 tháng 2 vừa qua có điểm qua một số gương mặt của một số nhà
độc tài tại Trung đông và trong thế giới Á rập nói chung. Đáng chú ý nhứt là đại
tá Muammar Gadhafi, người đã cai trị Lybia từ 41 năm nay. Kế đó là tổng thống
Ali Abdullah, người đã cầm quyền tại Yemen từ
32 năm qua và Omar Hassan al Bashir, người đã cai trị bằng bàn tay sắt tại
Sudan từ 21 năm nay. Liệu cuộc cách mạng “hoa lài” tại Tunisia và cuộc nổi dậy
tại Ai cập có là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho các nhà độc tài này và bao
nhiêu nhà độc tài khác trên khắp thế giới không? Hầu hết nhà độc tài nào cũng
đã từng là những con người “đa mưu túc trí”, nếu không từng là anh hùng dân tộc,
thì ít ra cũng đã có một thời mang lại an ninh, ổn định và thịnh vượng cho xứ sở.
Ở bên Á châu, không ai phủ nhận những đóng góp của ông Marcos cho sự phát triển
của Phi luật tân. Ở Ai cập, làm sao không nhìn nhận vai trò của ông Mubarak trong
việc ổn định xứ sở và nâng cao trình độ dân trí . Nhưng cũng như những người cộng
sản Việt nam say men chiến thắng đến độ xem nhẹ nhu cầu phát triển trong thời
bình, thì có lẽ một số nhà độc tài cũng tự hào về những chiến công mở đầu đến độ
cho mình có quyền được độc quyền cai trị đất nước và vơ vét tài sản vào cái túi
không đáy của mình. Họ không chịu nhìn vào gương trước mắt để thấy cái số phận
hầu như “tất yếu” của mọi nhà độc tài là phải ra đi trong nhục nhã và có khi mất
hết những gì mình đã thu tích.
Tôi đã từng thấy
thương hại ông Marcos. Nay tôi cũng thấy ái ngại cho ông Mubarak. Thông minh,
tài trí để cai trị đất nước và cầm cân nẩy mực trong 30 năm trời và nay đã đến
cái tuổi gần đất xa trời mà vẫn chưa ngộ ra được cái lẽ thường tình của cuộc đời
có vay có trả. Ngẫm nghĩ về những diễn biến tại Tunisia, Ai cập và hiệu ứng “domino”
có lẽ rồi cũng sẽ xảy ra trong thế giới Á rập và trong nhiều chế độ độc tài
khác trên khắp thế giới, tôi lại nhớ đến câu nói quen thuộc của ông bà chúng
ta: “Tham thì thâm”.
Có người kia chỉ
mơ tưởng đến vàng. Đêm ngày, không giây phút nào mà ông không bị vàng ám ảnh.
Ngày nọ, như một người mộng du, ông lao thẳng vào một tiệm kim hoàn, dùng búa đập
nát cái tủ đựng nữ trang, vơ vét và nhét đầy cái bao của mình rồi chạy đi như
chỗ không người. Dĩ nhiên, chuyện chôm chĩa diễn ra giữa thanh thiên bạch nhựt
và nhứt là trước mặt một viên cảnh sát đứng canh gác gần đó, cho nên kẻ trộm đã
bị khóa tay và bắt giữ một cách dễ dàng. Ông bị mang về một trạm cảnh sát gần
đó. Trước khi nhốt kẻ trộm vào phòng giam, viên cảnh sát thắc mắc: “Tôi không
hiểu tại sao anh lại đi ăn trộm ngay trước mặt mọi người như thế. Có cả hàng
trăm người đang đứng trước cửa tiệm. Có tôi là cảnh sát đang canh gác ở đó. Vậy
mà ông vẫn xem như không có ai.” Con người bị ám ảnh bởi vàng bạc tỉnh bơ giải
thích: “Quả tình thì tôi chẳng thấy ai cả. Tôi chỉ thấy có vàng mà thôi.”
Lòng tham quả thật
khiến cho con người mù quáng. Lòng tham làm cho chúng ta không thấy đúng sai,
nghĩa là không những không thấy điều mình đang làm mà cả những gì có thể xảy ra
cho bản thân. Những người chuyển vận ma túy có lẽ không bao giờ nghĩ rằng mình
sẽ bị bắt, bị giam tù hay ngay cả bị án tử hình. Những nhà độc tài có lẽ cũng
nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ có một ngày tàn.
Trong sách Tin Mừng,
Chúa Giêsu đã mô tả đúng cái tâm trạng mù quáng của người có lòng tham không
đáy. Ngài nói đến một người giàu có nọ tự nhủ: “Ta hãy thu tích lúa thóc, xây
những kho lẫm lớn hơn và thụ hưởng.” Nhưng ngay chính đêm hôm đó, con người
giàu có ấy phải ra đi với hai bàn tay trắng.
Người tham lam
chỉ biết có “tôi” và “những gì thuộc về tôi”. “Những gì thuộc về tôi” đôi khi
còn lấn lướt luôn cả cái “tôi” khiến họ không thấy được sự nghèo nàn của chính mình.
Họ mù lòa trước những nhu cầu của người khác. Họ cắt đứt quan hệ thân tình với
mọi người. Có nói chuyện thì họ cũng chỉ biết nói về mình hoặc với chính mình.
Tựu trung, lòng tham giam hãm con người trong ngôi nhà tù kín mít là chính bản
thân để họ không còn nghĩ đến ai khác ngoài của cải của mình.
Chúng ta thường
nói đến “lòng tham không đáy” của con người. Nó chẳng khác nào một cái bẫy mà một
khi đã rơi vào con người khó thoát ra được. Giá mà lòng tham có được một cái “đáy”
thì có lẽ con người đã biết dừng lại đúng lúc.
Tôi thích câu
chuyện về lòng tham không đáy mà ai đó đã tưởng tượng ra như sau: “Một vị linh
sư Ấn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy rằng người
đệ tử không cần sự dìu dắt của mình nữa cho nên ông mới bỏ mặc anh trong một
túp lều tranh rách nát bên cạnh một dòng sông. Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, người
đệ tử bước xuống dòng sông để thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếu áo
rách rưới của mình. Đây là tài sản duy nhứt của anh.
Ngày nọ, anh đau
đớn vô cùng khi nhận ra chiếc áo phơi bên cạnh bờ sông đã bị chuột cắn tả tơi.
Không còn cách nào nữa, người đệ tử đành phải vào làng gõ cửa một gia đình nọ để
xin một chiếc áo khác. Nhưng lần này, chiếc áo lại cũng bị chuột gặm nát. Để trừ
chuột, anh chỉ còn có mỗi một cách là nuôi một con mèo. Có mèo, anh không còn
phải canh chừng mấy con chuột và cũng chẳng còn phải đi xin áo mặc nữa. Nhưng
đã có mèo thì đương nhiên cũng phải lo cho mèo có của ăn để nó không bỏ đi.
Ngày ngày, phải
vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một thứ gánh nặng đối với
dân làng. Nghĩ thế, anh mới tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn
làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự
mình cắt cỏ cho bò ăn. Về lâu về dài, nhận thấy không còn thì giờ cho việc tu
niệm, anh đành phải thuê người cắt cỏ cho bò. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều,
số người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Không mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều
của anh đã biến thành một nông trại có tấp nập người vào kẻ ra.
Con người đã một
thời muốn bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ nay nghiễm nhiên trở thành một
chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự cho nên anh cũng muốn có người chia sẻ
công việc và cuộc sống của mình. Anh đành phải có vợ. Và không mấy chốc, anh đã
trở thành một trong những chủ nông trại giàu có nhứt trong làng.
Vài năm sau, khi
có dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư đã một thời dẫn dắt anh, ngạc
nhiên vô cùng, vì thay cho túp lều nghèo nàn bên cạnh bờ sông, nay là cả một cơ
nghiệp đồ sộ. Dò hỏi tung tích của người chủ nông trại, vị linh sư mới lên tiếng
hỏi người đệ tử của mình: “Thế này nghĩa là gì hả con?” Người đệ tử trả lời: “Có
lẽ thày không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu cũng chỉ vì con đã không
làm cách nào giữ được chiếc áo rách của mình.”
Một triết gia hiện
sinh nào đó đã nói rằng con đường dẫn xuống hỏa ngục được lát toàn bằng thiện
ý. Ở khởi đầu, có lẽ nhà độc tài nào cũng dấn thân vì dân, vì nước, vì sơn hà
xã tắc. Nhưng dần dà, khi đã cắn vào cái bã của quyền lực, danh vọng và tiền của,
con người chẳng khác nào một kẻ say rượu không còn biết đâu là phương hướng của
cuộc sống và cũng chẳng còn nhận ra chính mình.
Diễn viên hài gốc
Canada nổi tiếng Mort Sahl hồi thập niên 1960 đã có lần nói rằng nếu bạn hỏi một
người dân California, họ là ai thì họ sẽ chỉ vào chiếc xe của họ. Sở dĩ con người
tự đồng hóa với của cải, tiếng tăm, quyền lực và địa vị xã hội của mình là bởi
không còn nhận ra chính mình. Nhà độc tài nào có lẽ cũng rơi vào tâm trạng ấy.
Họ bị đặt vào một tư thế “chơi vơi” để không còn dám quyết định và chỉ chờ đợi
bị dân chúng nổi lên để đạp xuống mới chịu buông tay ra đi.
Tôi vẫn thích
câu nói học được ngay từ lúc còn để chỏm: “Trèo cao té nặng”. Cũng như mọi đứa
trẻ nhà quê, tôi thích leo trèo để hái trái cây hay để bắt tổ chim. Bất cứ cây
nào tôi cũng leo. Khi leo tôi chỉ biết nhìn lên. Đến khi từ trên cao nhìn xuống,
tôi mới thấy run và không muốn leo xuống. Cứ mỗi lần khuyên nhủ hay ngăm đe, mẹ
tôi thường lập lại: “Trèo cao té nặng nhe con”
Ngày nay, hiểu
câu nói ấy theo nghĩa bóng, tôi thấy nó hoàn toàn ứng dụng cho những nhà độc
tài. Ở một độ cao nào đó của quyền lực, danh vọng, tiền của, nhứt là tiền của
phi nghĩa, con người thường dễ đánh mất chính mình.
Thời gian gần
đây, thiên tai đã xảy ra khắp nơi và dưới mọi hình thức: núi lửa, động đất, cuồng
phong, bão táp, lụt lội, đất chuồi, hỏa hoạn, tai nạn giao thông…Những thước
phim thời sự cho thấy những gương mặt vẫn còn hãi hùng sau khi trải qua những mất
mát. Khi được hỏi làm thế nào để chịu đựng những mất mát và đâu là bài học đã học
được từ những biến cố đau thương ấy, hầu như ai cũng trả lời: “Phải, chúng tôi
đã mất tất cả. Nhưng điều quan trọng là chúng tôi vẫn còn sống.”
Câu trả lời trên
đây không khỏi khiến tôi nhớ lại lời cảnh cáo của Chúa Giêsu: “Được cả thế giới
mà đánh mất chính mình thì được ích gì?” (Mc 8, 36)
Trong tất cả mọi
lãnh vực của đời sống, tinh thần hay vật chất, đều có những giới hạn mà con người
luôn muốn tìm mọi cách để vượt qua. Lòng tham giữ số một và tàn phá tất cả thứ
khác, kể cả chính tôi. Dù tôi luôn ngăn ngừa, tỉnh thức, lòng tham vẫn là một
“con ngựa bất kham” trong chính tôi. Không “dụ dỗ” tôi tham được chuyện lớn thì
cũng tìm cách “rỉ rả” tôi tham chuyện nhỏ. “Cầm cương” con ngựa này quả là vất
vả. Dù biết phải nói “Không” với nó nhưng những gì nó rỉ tai cũng thường làm
tôi “mất lập trường”. Kể cũng may, nếu tôi có “dịp” làm nhà “độc tài”, liệu tôi
có khá hơn họ không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét