Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Thế giới cần những con người lương thiện tử tế


Chu Thập
03.11.03
Ngày đầu tháng 11 hàng năm, theo truyền thống Kitô giáo, tôi thường đến một nghĩa trang để tưởng nhớ người quá cố. Không có người thân ruột thịt nào của tôi yên nghỉ ở bất cứ nghĩa trang nào tại Úc Đại Lợi này cả, nhưng tôi vẫn tin tưởng và cảm nhận được sự hiện diện “như tại” của họ, như thể h đang ở trước mặt tôi, bên cạnh tôi để tôi có thể truyện vãn và hỏi han về bất cứ chuyện gì. Không riêng gì người thân, mà cả những người xa lạ không quen biết, cứ hễ đã là người “quá cố” thì đều trở thành thiết thân gần gũi với tôi. Trong số những người dưng nước lã” đã trở thành thân thiết ấy, năm nay tôi muốn đặc biệt tưởng nhớ và gặp gỡ một số nhân vật lịch sử.
Trước hết là cố tổng thống Ngô Đình Diệm, vị nguyên thủ quốc gia đã thành lập nền Đệ Nhứt Cộng Hòa và đã bị sát hại ngày 1 tháng 11 năm 1963, cách đây đúng 50 năm. Khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị các tướng lãnh đảo chính, lật đổ và giết chết một cách tàn bạo dã man, tôi đang chuẩn bị thi Trung học đệ nhứt cấp. Ở tuổi vị thành niên, nhận thức chính trị của tôi còn mù mờ non nớt. Lúc đó, cùng với các bạn học “di cư Bắc Kỳ”, tôi đã khóc khi hay tin tổng thống Diệm, người mà từ lúc có trí khôn tôi đã “suy tôn” khi hát bài “Ai bao năm vì đất nước quên thân mình…”, bị sát hại. Lúc đó, tôi không biết chính sách cai trị của tổng thống Diệm có độc tài không, ông có chủ trương bách hại tôn giáo không, chế độ của ông có phải là gia đình trị không. Óc quan sát và nhận định của tôi chỉ vừa đủ để nhận thấy rằng sự sụp đổ và cái chết của tổng thống Diệm đã dẫn đến sự phá sập các ấp chiến lược, mở ngõ cho Việt Cộng ào ạt tràn vào thôn làng và khắp mọi hang cùng ngõ hm của đất nước và kéo theo một giai đoạn đy xáo trn với sự đổ quân ào ạt của người Mỹ vào Việt Nam và cuối cũng dẫn đến sự sụp đổ quá nhanh của Miền Nam Việt Nam. Ngày nay, với sự giải mã của những tài liệu liên quan đến cuộc chiến tại Việt Nam mà tôi có dịp đọc được, tôi mới hiểu được rằng cái chết của tổng thống Diệm và ngay cả cái chết của cả Miền Nam Việt Nam dường như đã được người Mỹ “an bài” và định đoạt cả.
Đó là chuyện lịch sử. Mà nói như Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã là lịch sử thì có bàn luận hay tuyên bố thế nào đi nữa, cũng chẳng thay đổi được. Trong ngày hôm nay, khi “gặp” cố tổng thống Diệm để “hỏi chuyện”, tôi tin chắc rằng ông chẳng phải tự biện minh, trách cứ hay nuôi dưỡng bất cứ một sự thù hận nào nữa. Dù có đứng ở phía chống đối để chỉ trích hay lên án ông vì những lầm lỗi ông đã sai phạm trong chính sách cai trị của ông, tôi nghĩ rằng không ai có thể tìm được bất cứ một tài liệu lịch sử nào cho thấy ông không là một con người thanh liêm, chính trực và đạo đức. Tôi đã từng ca bài “suy tôn Ngô tổng thống” suốt gần 10 năm trời, nhưng tôi chưa hề tôn ông làm thần tượng. Với tôi, ông là một nhà lãnh đạo lương thiện và tử tế hiếm thấy trong thời đại nhiễu nhương. Thế giới vẫn luôn cần những con người như thế. Nếu có một tiếng nói mà tôi có thể nghe được từ cố tổng thống Ngô Đình Diệm thì tiếng nói đó là một lời mách bảo rằng thế giới cần những con người lương thiện, tử tế và đạo đức hơn những anh hùng.
Tưởng nhớ cố tổng thống Ngô Đình Diệm trong ngày 1 tháng 11 năm nay, tôi cũng liên tưởng đến một người mà lịch sử đã cho thấy có dính líu đến cái chết của tổng thống Diệm cũng như tương lai đen tối của đất nước. Người đó là cố tổng thống Hoa Kỳ, John F.Kennedy, người cũng đã ra đi trong một cái chết thảm thiết chỉ sau tổng thống Diệm đúng 21 ngày. Là một người trẻ đang đi tìm cho mình một mẫu người lý tưởng, tôi cũng đã có lúc say mê hình tượng của ông. Thời đó, người thanh niên nào mà chẳng thuộc nằm lòng câu nói để đời của ông khi ông ngỏ lời với thanh niên Mỹ: “Đừng hỏi đất nước phải làm gì cho các bạn, mà hãy tự hỏi các bạn phải làm gì cho đất nước”.
Nhưng ngày nay, nếu cố tổng thống Kennedy còn sống trong ký ức của tôi thì hẳn không phải là hình tượng của một chính trị gia trẻ trung, tài ba, có sức thu hút lạ thường, mà là một con người biết “sám hối”. Sau khi hay tin tổng thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát, nghĩa là chỉ vài tuần lễ trước khi chính mình cũng trải qua cùng một số phận, tổng thống Kennedy, mặc dù là người đã khai mở chính sách can thiệp thô bạo vào nội tình Việt Nam, “đã tỏ ra xúc động sâu xa và chưa bao giờ buồn rầu đến như thế kể từ khi xảy ra vụ (khủng hoảng và đối đầu với Liên xô tại) Cuba năm 1960. Ông nói: “Ông Diệm đã từng chiến đấu 20 năm trường cho quê hương ông, lẽ nào phải kết liễu như thế.”(M.Taylor, Swords and Plowshares, trg.301). Điều này đã làm cho tổng thống John F. Kennedy ray rức rất nhiều về phương diện tôn giáo và luân lý.” (Phạm văn Lưu, Biến cố chính trị Việt Nam hiện đại, Centre for Vietnamese Studies, 1994, trg 204).
Với tôi, con người thể hiện “tính người” nhiều nhứt khi họ biết hối tiếc, hối hận hay sám hối. Có lẽ ai vào nghĩa trang cũng đều thấy tự nhiên trào dâng trong tâm hồn nỗi niềm thương tiếc trước sự ra đi của người quá cố. Nhưng có lẽ người quá cố cũng sẽ nhắc nhở người còn sống rằng chỉ có một tình cảm đáng trân quý nhứt đó là sự hối tiếc và niềm hối hận khi mình đã gây thiệt hại, làm tổn thương người khác và nhứt là xúc phạm đến sự sống của họ. Tôi nghĩ đó là điều mà có lẽ cố tổng thống Kennedy muốn nói với tôi khi ông nghĩ đến cái chết thảm thiết của cố tổng thống Ngô Đình Diệm mà một cách gián tiếp ông đã gây ra khi chính phủ của ông đã “mua chuộc” các tướng lãnh Việt Nam để thực hiện cuộc đảo chính dẫn đến cái chết của tổng thống Diệm.
Nhìn bức tượng đồng “Thương tiếc” do thiếu tá điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu thực hiện và được dựng lên tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa trước năm 1975 và sau năm 1975, bị bạo quyền Việt Cộng giật sập và phá hủy, tôi thường nghĩ đến sự hối hận mà con người phải nuôi dưỡng trong cuộc sống. Bức tượng ấy dĩ nhiên gợi lên niềm tiếc thương đối với những chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở về tính phi lý của một cuộc chiến mà do tham vọng hay mù quáng ý thức hệ, những người cộng sản Miền Bắc đã gây ra. Tiếc thương cho những người đã nằm xuống, dù ở bên nào của cuộc chiến, và hối hận vì đã gây ra cuộc chiến nồi da xáo thịt: đó là điều mà lẽ ra bất cứ ai còn có chút lương tri và biết tôn trọng lẽ phải, cũng đều phải có.
Tiếc thay, nhiều người cộng sản Miền Bắc, cho đến lúc chết, vẫn chưa có được thứ tình cảm bình thường ấy của con người. Trong ngày 1 tháng 11 năm nay, tưởng nhớ cố tổng thống Ngô Đình Diệm và cố tổng thống John F. Kennedy, tôi cũng không thể không nghĩ đến “nhất tướng công thành vạn cốt khô” Võ Nguyên Giáp. Rồi đây, mỗi khi tưởng niệm tổng thống Ngô Đình Diệm và tổng thống Kennedy, người ta cũng buộc phải liên tưởng đến ông Võ Nguyên Giáp, vì tên tuổi của ông  gắn liền với cuộc chiến phi lý tàn bạo mà cả hai vị tổng thống kia đều can dự vào. Nhắc đến cuộc chiến ấy, người ta cũng không thể không nghĩ đến 15 ngàn thanh niên thiếu nữ Miền Bắc bị ông đem nướng trong lòng chảo Điện Biện Phủ để được ông Hồ Chí Minh thăng cấp “đại tướng”. Nhắc đến ông người ta không thể không nghĩ đến 4 triệu đồng bào ruột thịt Nam Bắc bị ông mang ra tế sát trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa trong cuộc chiến tương tàn để được mãi mãi mang danh hiệu “đại tướng huyền thoại”. Nhưng nhắc đến ông, thế giới cũng sẽ mãi mãi không bao giờ quên được thái độ “không chút mảy may” hối hận vì đã hy sinh đến hàng triệu triệu đồng bào ruột thịt để chỉ mang lại đau thương tang tóc và khốn khổ cho cả dân tộc.
Mới đây, sau khi ông Giáp đã nằm xuống, tác giả Stein Tonneson, một học giả có nhiều nghiên cứu về Việt Nam và hiện đang làm việc tại viện nghiên cứu hòa bình Oslo và chương trình nghiên cứu hòa bình Đông Á của Đại học Uppsalla, đã ghi lại hai cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa của cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara (1916-2009) với ông Võ Nguyên Giáp. Lần đầu tiên hai cựu thù đã gặp nhau là năm 1995, sau khi chiến tranh chấm dứt được đúng 20 năm. Cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã có một ấn tượng khá đẹp về Việt Nam khi ông được đón tiếp không phải như kẻ thù mà như một người bạn. Ông tin tưởng và lạc quan đến độ nói với các nhà báo: “Tôi thực sự cảm động khi không hề thấy sự thù hận nào trong ánh mắt của người Việt Nam đối với tôi. Một Việt Nam thanh bình, dẫu chưa phồn vinh, nhưng quả là đẹp. Một đất nước như thế, một dân tộc như thế thì họ từng đứng vững trong quá khứ và sẽ tiến lên trong tương lai là điều không phải tranh cãi”. Với ấn tượng tốt đẹp như thế về ông Giáp sau lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 1995, hai năm sau, trong một dịp đến Việt Nam dự Hội thảo Việt Mỹ lần đầu tiên, ông McNamara lại bằng mọi giá cố gắng đến thăm ông Giáp khi chỉ còn vài tiếng đồng hồ trước khi lên máy bay trở về Mỹ. Nhưng lần này, ông đại tướng huyền thoại của cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình của một tên hiếu sát và khát máu, miệng luôn tuôn ra sự tự mãn và hận thù (Vài suy nghĩ nhân đọc bài tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Tonneson, Đàn Chim Việt.Info 26/10/2013). Đây có lẽ cũng chính là giọng điệu mà người được thế giới nói đến như “đại tướng huyền thoại” và nhiều người trong nước vẫn tôn là thần tượng đã lập lại với hãng thông tấn AFP trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 2005: ông không một chút mảy may hối hận nào về việc đã hy sinh đến 4 triệu đồng bào ruột thịt để gọi là đánh cho “Mỹ cút ngụy nhào”, nhưng thực tế là để tô điểm cho hào quang “đại tướng huyền thoại” của ông.
Cũng như tổng thống Kennedy, trước khi nằm xuống, đã bị dằn vặt ray rứt và dĩ nhiên hối hận vì đã bật đèn xanh cho cuộc đảo chính dẫn đến cái chết của cố tổng thống Ngô Đình Diệm, trước khi ra đi, cựu bộ trưởng quốc phòng McNamara có lẽ cũng nhìn nhận những sai lầm của cá nhân ông và của chính phủ Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Việt Nam. Nghĩa trang ở đâu cũng luôn được xem là nơi yên nghỉ. Ở đó chẳng còn tranh chấp hận thù hay ngay cả thứ bậc giai cấp. Dù có nằm trong lăng tẩm hay bị chôn vùi ở một nơi chẳng còn ai biết đến, tất cả mọi người quá cố đều bình đẳng với nhau và có lẽ cũng đều chỉ có một thông điệp để nhắn gởi với người còn sống: hãy sống hòa bình với nhau và hãy biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác. Giờ này, tôi cũng cố gắng lắng nghe tiếng nói của ông Giáp và tưởng tượng ra cùng một thông điệp ấy. Còn nếu ông vẫn tiếp tục mang theo xuống mồ tâm tư thù hận và niềm kiêu hãnh bệnh hoạn vì đã xây dựng đài vinh quang giả trá của mình trên mạng sống của cả một dân tộc và như thế khó có thể “yên giấc ngàn thu”, thì tôi cũng  xin cầu chúc cho ông  được “yên nghỉ” như mọi người quá cố!
Vào thăm viếng nghĩa trang năm nay, tôi không thể không nhớ đến ông “đại tướng huyền thoại” và “thần tượng” của nhiều người Việt Nam trong nước. Cuộc sống đơn sơ, liêm khiết, chính trực và đạo đức của cố tổng thống Ngô Đình Diệm, nỗi niềm ray rứt của cố tổng thống Kennedy vì đã gây ra cái chết thảm thiết của tổng thống Diệm, thiện chí  hòa giải và xây dựng hòa bình của cố bộ trưởng quốc phòng Mỹ McNamara...gợi lên cho tôi ý nghĩ: thế giới cần đến những con người lương thiện, tử tế, biết hối hận hơn là những “huyền thoại” và “thần tượng” vô cảm.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét