05/05/17
Đảo Faroe đang trải qua tình trạng trai thừa gái thiếu,
cho nên đàn ông ở đây phải đi rất xa, có khi phải sang tận Á Châu, cách riêng
Thái Lan và Phi Luật Tân để tìm vợ. Nhưng chịu đựng được cái lạnh khủng khiếp của
Đảo Faroe là cả một vấn đề đối với các cô dâu Á Châu.
Athaya Slaetalid là một cô dâu Thái Lan đã về nhà chồng
cách đây 6 năm. Trong thời gian đầu, cô phải ru rú bên cạnh lò sưởi suốt ngày.
Cô và Jan, một người dân Đảo Faroe, đã gặp nhau tại Thái Lan, khi anh làm việc cho một
người đồng hương tại nước này. Jan biết trước rằng đưa vợ về nước là cả một vấn
đề lớn đối với cô, bởi vì phong cảnh, thời tiết và văn hóa của nước anh hoàn
toàn khác với quê hương của cô. Tuy nhiên Jan tin tưởng rằng vợ anh có thể vượt
qua được mọi thách đố và khó khăn.
Hiện đang có trên 300 phụ nữ người Thái Lan và Phi Luật
Tân đang sinh sống tại Đảo Faroe. 300 người chỉ là một con số nhỏ. Tuy nhiên so
với một dân số chỉ có khoảng 50.000 người thì đây quả là một thiểu số đáng kể
trong một nước gồm có 18 hòn đảo nhỏ năm giữa Na Uy và Băng Đảo.
Faroe là một vùng tự trị bên trong Vương quốc Đan Mạch.
Vùng đất gồ ghề này lại có một khí hậu vô cùng khắc nghiệt: mưa, gió, ẩm ướt,
mây mù và lạnh quanh năm. Người dân Đảo Faroe mỗi năm chỉ thấy ánh mặt trời được
6 tháng và nhiệt độ cao nhất của tháng hè thường không quá 16 độ C.
Faroe là một quần đảo gồm 18 đảo nhỏ nằm cách bờ biển Bắc
Âu khoảng 655 cây số, với diện tích tổng cộng khoảng 1400 cây số vuông.
Kể từ năm 1388, Faroe nằm dưới sự kiểm soát của Na Uy và
Đan Mạch. Nhưng từ giữa năm 1035 đến 1814, Faroe đã trở thành một phần của Vương
quốc Đan Mạch. Năm 1814, Hiệp ước Kiel dành cho Đan Mạch quyền được kiểm soát đối
với Faroe, cũng với hai đảo khác thuộc Na Uy là Greeland và Băng Đảo.
Trong những thập niên vừa qua, phong trào đòi độc lập đã
thu hút được sự ủng hộ của đa số dân Faroe. Sau Đệ nhị Thế chiến, cao trào độc
lập mạnh đến độ ngày 14 tháng Chín năm 1946, một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập
đã được tổ chức. Tuy nhiên, đây là một
cuộc trưng cầu dân ý chỉ có mục đích tham khảo ý kiến của người dân mà thôi. Điều
đó có nghĩa là Quốc hội không bị buộc phải theo ý kiến của người dân. Đây là lần
đầu tiên người dân Faroe được hỏi ý kiến có nên tuyên bố độc lập hay muốn tiếp
tục ở lại trong Vương quốc Đan Mạch. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý cho thấy đa số
dân chúng Faroe muốn có độc lập. Tuy nhiên, liên đảng trong Quốc hội không đạt
được thỏa thuận về thủ tục tiến hành nền độc lập. Vì những khác biệt không thể
vượt qua được, liên đảng đã tan rã. Một cuộc bầu cử Quốc hội mới vài tháng sau
đó đã đưa những thành phần chống độc lập
lên cầm quyền. Và họ đã bỏ phiếu thuận cho việc ở lại trong Vương quốc Đan Mạch.
Tuy vậy, kể từ năm 1984, Đảo Faroe đã tranh đấu để cuối
cùng được quyền tự trị bên trong Đan Mạch. Người dân Faroe tự quản lý trong hầu
hết các vấn đề nội bộ. Những lãnh vực khác như quốc phòng, cảnh sát, tiền tệ và
ngoại giao thuộc trách nhiệm của Vương quốc Đan Mạch. Dù vậy, về ngoại thương,
Faroe vẫn đeo đuổi một chính sách riêng. Họ có thể thương thảo để đạt những hiệp
ước thương mại với các nước khác. Họ cũng có đại diện trong Hội Đồng Bắc Âu
ngang hàng với các thành viên của phái đoàn Đan Mạch. Ngay cả trong một số hoạt
động thể thao, Faroe cũng thi đấu dưới lá cờ riêng của họ.
Trong những năm gần đây, Faroe phải trải qua một thời kỳ
giảm sút dân số trầm trọng. Người trẻ bỏ nước ra đi, thường là để đeo đuổi việc
học hành và họ không bao giờ trở về. Ngay cả phụ nữ cũng đi lập nghiệp ở những
nước khác. Kết quả là, theo Thủ tướng Axel Johannesen, cán cân giới tính ngày
càng mất thăng bằng: hiện trên toàn đảo, số phụ nữ ít hơn nam giới đến cả 2000
người. Do đó, tìm được người ăn đời ở kiếp với mình không phải là dễ dàng đối với
nhiều đàn ông Faroe.
Tuy nhiên, một số không chấp nhận bỏ cuộc để mang tiếng “ế
vợ”. Với sự tiến bộ của các phương tiện truyền thông ngày nay, lên mạng để tìm
vợ là giải pháp thông thường nhất. Hầu hết đàn ông thanh niên Faroe tìm được
người phối ngẫu Á Châu qua các trang mạng xã hội và ngay cả thương mại hoặc qua
sự giới thiệu của những người đã đi trước, tức những người đã có vợ Á Châu.
Với những cô dâu mới đến Faroe, khác biệt văn hóa là một
vấn đề lớn.
Mặc dầu là một phần lãnh thổ của Vương quốc Đan Mạch,
Faroe lại có ngôn ngữ và văn hóa riêng, nhất là ẩm thực. Người dân đảo này
thích ăn món thịt trừu lên men, cá mú phơi khô, mỡ cá và ngay cả thịt cá voi.
Nêm nếm và gia vị thì chẳng bao giờ có rau cỏ và mùi vị của Á Châu.
Athaya là một phụ nữ tự tin và can đảm. Hiện đang làm việc
trong một tiệm ăn ở Torshavn, thủ phủ của Faroe, lúc nào trên môi cô cũng có nụ
cười. Cô và chồng cô sống trong một ngôi nhà gỗ ấm cúng bên cạnh một con sông
nhỏ uốn khúc giữa một khe núi. Cô thú nhận rằng hội nhập vào một xứ sở hoàn
toàn xa lạ với quê hương cô không phải là điều dễ dàng. Cô cho biết: “khi đứa
con trai đầu lòng tên là Jacob của chúng tôi chào đời, tôi ở nhà suốt ngày mà
chẳng có ai để nói chuyện với”. Đa số dân làng là người có tuổi và hầu hết
không nói được tiếng Anh. Còn những người cùng độ tuổi với vợ chồng Athaya thì
lại phải đi làm. Riêng cậu con trai Jacob thì chẳng có trẻ con cùng lứa để chơi
đùa. Athaya than thở: “Tôi thực sự cô đơn. Ở đây, ở nhà có nghĩa là ở nhà một
mình. Tôi có thể nói là mình bị trầm cảm. Nhưng tôi cũng biết rằng điều đó thường
xảy ra trong hai ba năm đầu”.
Chỉ khi cậu con trai đến tuổi được gởi đi nhà trẻ, Athaya
mới bắt đầu đi làm việc trong một tiệm ăn và gặp gỡ với những phụ nữ Thái khác.
Nhờ vậy cô cảm thấy bớt nhớ nhà.
Một cô dâu Thái khác tên là Krongrak Jokladal lúc đầu
cũng có cùng một tâm trạng như Athaya. Trondur, chồng cô, là một thủy thủ. Anh
phải xa nhà trong nhiều tháng. Krongrak mở một tiệm “thoa bóp” trong trung tâm
Thủ đô Torshavn. Làm chủ tiệm cho nên Krongrak tổ chức thời giờ làm việc theo ý
muốn của mình để có thời giời rảnh rỗi dành cho đứa con mới sinh. Cha mẹ chồng
cô cũng đỡ đần một phần trong việc trông coi đứa bé.
Trước khi về nhà chồng, Krongrak đã từng đứng đầu một
phân bộ kế toán trong một cơ quan chính quyền địa phương. Mặc dầu có trình độ học
vấn cao, nhiều phụ nữ Á Châu như Krongrak vẫn gặp nhiều trở ngại về ngôn ngữ
cho nên thường chỉ làm những công việc thấp hơn khả năng của họ.
Thủ tướng Axel Johnnesen nói rằng chính phủ rất quan tâm
đến việc giúp cho những người di dân mới đến Đảo Faroe vượt qua được những trở
ngại như thế. Thủ tướng Faroe nhìn nhận rằng các phụ nữ Á Châu là những thành
phần rất tích cực trong thị trường lao động. Do đó, một trong những ưu tiên
hàng đầu của chính phủ là giúp họ học tiếng Faroe. Hiện chính phủ đang mở những
lớp học tiếng Faroe miễn phí cho người di dân.
Kristijan Arnason là một người đàn ông cũng lấy vợ Thái.
Vợ ông, cô Bunlom đã đến Faroe năm 2002. Ông cho biết mỗi ngày, sau một ngày
làm việc cực nhọc, cô còn phải chúi mũi vào quyển tự điển Anh-Faroe để học tiếng
địa phương. Người vợ Thái này khoe rằng mình là người may mắn. Trước khi đến Đảo
Faroe, cô được người chồng tương lai hứa hẹn rằng thế nào cô cũng tìm được việc
làm. Và ông đã giúp cô tìm được việc làm. Hiện cô đang làm việc trong một khách
sạn. Vì phải tiếp xúc với người khác cho nên cô thấy cần phải cố gắng học tiếng
của họ.
Vào thời buổi di trú đang là một vấn đề nóng bỏng tại nhiều
nước Âu Châu, xã hội Faroe lại mở rộng vòng tay để đón nhận di dân ngoại quốc.
Một chính trị gia hàng đầu của Faroe là ông Magni Arge,
người hiện cũng đang giữ một ghế trong Quốc hội Đan Mạch, cho biết: cho tới nay
phần lớn những người di dân đến Faroe đều là phụ nữ. Tất cả đều tìm được công
ăn việc làm cho nên không tạo ra bất cứ vấn đề xã hội nào. Ông Arge giải thích
rằng vì đã chứng kiến những khó khăn mà người di dân đã phải đương đầu khi nhập
cư vào những nước như Anh quốc, Thụy Điển và một số nước khác ở Âu Châu cho nên
Chính phủ Faroe đã cố gắng để giúp cho người di dân không bị cô lập.
Antonette Egholm là một phụ nữ Phi Luật Tân. Cô cho biết
không phải trải qua bất cứ khó khăn nào trong việc hội nhập vào xã hội mới.
Antonette giải thích: “Dân chúng ở đây rất thân thiện. Tôi chưa bao giờ gặp bất
cứ phản ứng tiêu cực nào vì là người ngoại quốc. Tôi đã từng sống tại Manila (Phi Luật Tân). Kẹt xe, ô nhiễm, tội phạm là cả một vấn đề. Trong khi đó ở
đây (Faroe), chúng tôi không phải sợ đến độ phải khóa cửa nhà cũng như chẳng phải
lo về chuyện bảo hiểm sức khỏe. Ngoài ra giáo dục lại còn được miễn phí nữa...”
Antonette nói rằng ở xứ sở mới cô cũng vẫn cảm thấy thoải mái như ở Phi Luật
Tân.
Chồng cô, ông Regin, cũng tin rằng tính đa diện ngày càng
gia tăng của xã hội Faroe là điều cần phải được đón nhận chứ không đáng lo sợ.
Ông cảm thấy hãnh diện về những đứa con mang hai dòng máu của ông. Ông cho biết
thỉnh thoảng cũng có một số bạn bè trêu chọc và hỏi có phải ông đặt hàng mua vợ
trên máy vi tính không. Nhưng nói chung, hai vợ chồng ông không gặp bất cứ
thành kiến nào về mối quan hệ của họ.
Xa quê hương, lạc lõng giữa một nền văn hóa hoàn toàn
khác biệt lại phải sống ở một nơi hẻo lánh có thể là một thử thách lớn đối với
các cô dâu Á Châu. Athaya cho biết nhiều người bạn Thái của cô hỏi tại sao cô
không chịu rời bỏ ngôi làng nhỏ ở nơi đèo heo hút gió và dọn về thủ đô là nơi
hiện có đến 40 phần trăm dân Faroe đang sinh sống. Ở đây, cậu con trai Jacob ít
ra cũng có nhiều bạn hơn. Nhưng Athaya trả lời dứt khoát: “Không, tôi thấy
không cần phải làm điều đó. Tôi đang cảm thấy hạnh phúc và xây dựng cuộc sống cho
gia đình chứ không phải chỉ sống cho qua ngày”.
Chỉ về hướng dòng sông giữa khe núi, Athaya giải thích rằng
cậu con trai của cô đang chơi trên bãi cát bên bờ sông. Xung quanh cậu bé là
đàn cừu. Lúc nào đứa bé cũng sống giữa thiên nhiên. Ông bà nội của cháu chỉ sống
bên kia đường. Ở đây không có ô nhiễm, cũng không có tội phạm. Athaya khẳng định:
“Ngày nay, không có nhiều đứa trẻ có được như thế. Đây có thể là địa đàng cuối
cùng trên trái đất”
Nói chung, các cô dâu Á Châu ở Faroe xem ra được may mắn
và hạnh phúc hơn phần lớn các cô dâu Việt Nam tại một số nước Á Châu khác, nhất
là tại Trung Cộng.
(Theo: wives wanted in the Faroe Islands,
http://www.bbc.com/news/magazine-39703486)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét