Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017

Trao tặng là nhận lãnh


Chu Thập
01.10.13
Hàng năm, cứ hết mùa Đông là tôi bắt đầu dọn dẹp lại tủ quần áo. Mỗi lần làm động tác này tôi lại thấy mình già thêm một chút. Người già thường “sinh tật” dè xẻn đến độ hà tiện. Tôi nhận ra nét già nua ấy khi nhìn lại tuổi của cái đống quần áo. Có cái đã 20 năm mà tôi vẫn cứ giữ. Chẳng có chút kỷ niệm nào cả, mà chỉ vì tiếc cho nên không muốn cho nó “tái sinh” thôi. Cho hội St Vincent hay Salvation Army thì lại thấy bất xứng. Thực ra, tôi vẫn luôn làm bài tính: nếu không “chạy theo” thời trang, mỗi năm tôi có thể dành dụm được một chút đỉnh để gởi về giúp người thân còn ở Việt Nam, tặng cho các hội từ thiện hoặc bảo trợ cho một em bé nghèo tại Á châu hay Phi châu. Không những thế, tôi còn có thể “ki cóp” thêm một khoản tiền nữa: Mỗi tháng tôi nhờ nhà tôi đè đầu ra để tân trang lại mái tóc muối nhiều hơn tiêu. Vừa khỏi phải mất giờ đi tiệm mà còn tiết kiệm được mười mấy Đô. Xấu mặt thì lâu chớ xấu đầu thì mấy lát. Nghĩ như thế cho nên tôi không phải mất giờ và tốn tiền để o bế mái tóc mà lại để dành được chút đỉnh để làm “công quả”.
Thật ra, đâu phải bắt đầu già như tôi mới dở tính trùm sò. Đọc tin tôi thấy có biết bao nhiêu tỷ phú trên thế giới này xem ra còn “trùm sò” hơn tôi đến cả tỷ lần. Như nhà tài phiệt địa ốc Warren Buffet chẳng hạn: với tổng tài sản lên đến 47 tỷ nhưng vẫn tiếp tục sống trong ngôi nhà nhỏ mà ông đã mua với giá chỉ có 31 ngàn Mỹ Kim từ hơn 50 năm trước. Trùm sò như tỷ phú này quả là đáng tôn thành thánh sống, bởi vì ông đã trao tặng hầu hết tài sản của mình cho các công việc từ thiện.
Tỷ phú Frederik Meijer cũng nổi tiếng “keo kiệt”. Xuất thân từ một gia đình nghèo, nhà tỷ phú đang có trong tay đến cả 5 tỷ này chọn những chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu nhứt và mặc những bộ quần áo rẻ tiền nhứt từ hệ thống các cửa hàng do mình làm chủ.
Nhưng đáng đề cao nhứt có lẽ là tỷ phú Chuck Feeney. Ông đã từng đóng góp cho các tổ chức từ thiện chuyên chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, nhưng luôn muốn giấu tên. Nhà tỷ phú này “trùm sò” đến độ không sắm bất cứ chiếc xe hơi hay ngôi nhà riêng nào. Khi được hỏi lý do tại sao ông vẫn đi tàu điện ngầm và tiết kiệm tiền để bí mật làm từ thiên, ông giải thích: “Không ai có thể mang tiền theo xuống mồ cả”.
Riêng tôi phục lăn tỷ phú David Cheriton. Là một giáo sư tại đại học nổi tiếng Stanford, tiểu bang California, Hoa Kỳ, ông Cheriton bỏ túi không dưới một tỷ Mỹ kim nhờ cổ phiếu của Google. Nhưng ông tỷ phú này hơn tôi ở chỗ là tự cắt tóc cho mình. Ông vẫn sống trong ngôi nhà cũ kỹ mua từ năm 1981 và tự lái chiếc xe Volkswagen đời 1986. Vậy mà năm 2005, ông tặng 25 triệu cho trường đại học Waterloo để trang bị máy tính.
Nói về xe hơi, thì hai anh em ông Karl và Theo Albrecht người Đức, đồng sáng lập chui siêu thị Aldi với chủ trương giảm giá sản phẩm tối đa, còn đi xa hơn. Mặc dù có tổng tài sản lên đến 50 tỷ Mỹ kim, họ vẫn sống trong một ngôi nhà khiêm tốn và nhứt là vẫn lái chiếc xe Volkwagen đời 1980.
Thế giới không thiếu những người giàu có “trùm sò” như thế. Có người ăn tiêu dè xẻn, có người đi lượm từng ve chai, lon thiếc để bán kiếm tiền và đóng góp vào các công việc từ thiện. Vì không còn cơ hội làm tỷ phú nên tôi có trùm sò một chút để có thể ra tay “hào phóng” kể ra cũng không có gì là “bất thường”.  
Chúa nhựt vừa rồi, tôi được nghe lại bài Tin Mừng về một tên “trùm sò” thứ thiệt. Bài dụ ngôn có tựa đề “Lazarô và người phú hộ” kể lại câu chuyện của một người giàu có ngày ngày yến tiệc linh đình, bất kể có một người hành khất tên là Lazarô, ghẻ lỡ đy mình, ngày ngày ở trước cng nhà ông, chỉ mong được ăn những miếng bánh vụn rơi từ bàn ăn xuống mà cũng chẳng được. Hai người cùng chết trong một đêm: người giàu có bị trầm luân, còn ngưi nghèo đưc lên thiên đàng.
Nhân bài dụ ngôn này, các vị giám mục Úc Đại Lợi cho công bố một lời kêu gọi với tựa đề “Lazarus at our gate” (Lazarô trước cng nhà chúng ta). Đọc tài liệu này, tôi biết rằng tính cho đến năm 2015, trên thế giới vẫn còn có khoảng gần một tỷ người sống với thu nhập mỗi ngày không tới 1.25 Úc kim. Hơn 250 ngàn phụ nữ vẫn chết khi sinh con. Mỗi năm có đến 8 triệu trẻ em chết vì suy dinh dưỡng và những chứng bệnh có thể phòng ngừa được như đi tả, ban sởi đỏ và sốt rét. Trên thế giới, cứ 8 người thì có một người bị thiếu dinh dưỡng.
Tài liệu của các nhà lãnh đạo công giáo Úc cũng nhắc lại rằng năm 2000, các nhà lãnh đạo của 189 quốc gia trên khắp thế giới đã gặp nhau và cam kết giải quyết vấn đề nghèo đói trên thế giới. Bản tuyên ngôn mang chữ ký của các nhà lãnh đạo thế giới đã đưa ra điều được gọi là 8 “Mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ” (Millenium Development Goals) phải đạt cho bằng được vào năm 2015. Đã có những bước tiến đáng kể trong việc thực hiện những mục tiêu của thiên niên kỷ. Nhưng xem ra còn lâu thế giới mới thực hiện trọn vẹn mục tiêu đầu tiên là tận diệt sự nghèo đói cùng cực vào năm 2015. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước giàu và các nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo trong cùng một nước, nhứt là ở những nước nghèo nàn mạt rệp như Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…hiện vẫn còn là một trời một vực. Tôi biết rằng nếu tôi có một tủ lạnh để dự trữ thức ăn, một cái giường để ngủ và một mái nhà để trú nắng che mưa thì tôi vẫn là người giàu có hơn 75 phần trăm dân số trên thế giới.
Phải nhìn nhận rằng kể từ khi tất cả các nhà lãnh đạo quốc gia trên khắp thế giới đã biết ngồi lại với nhau để đề ra những “mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ” tỷ lệ của những người sống trong nghèo nàn cùng cực đã giảm đi được một nửa. Năm 1990, có đến 47 phần trăm dân số thế giới sống trong cảnh nghèo cùng, nghĩa là phải sống bằng thu nhập mỗi ngày dưới 1.25 Úc kim. Năm 2008, tỷ lệ này chỉ còn 24 phần trăm.
Dĩ nhiên, nghèo không chỉ đơn thuần là nghèo tiền. Bên cạnh cái nghèo về tiền, còn có biết bao nhiêu hình thức nghèo khác như nghèo giáo dục, nghèo những dịch vụ xã hội, nghèo nhân quyền, nghèo tự do, nghèo hòa bình, nghèo về những cơ hội được sống và đạt được mục đích tối hậu của phát triển là hạnh phúc.
Tài liệu của các vị giám mục Úc Đại Lợi về muôn mặt của sự nghèo nàn trên thế giới ngày nay và hình ảnh của ông “trùm sò” được Chúa Giêsu mô tả trong bài dụ ngôn mà trên một tỷ người công giáo, trong đó có tôi, đã nghe hôm Chúa nhựt vừa qua, không khỏi gợi lên cho tôi thái độ dửng dưng, mùa lòa, điếc lác, chai lì  của chính tôi trước nỗi khốn khổ của những người “đang ở trước cng nhà tôi”. Dĩ nhiên, trong cái xóm nhỏ của tôi, tôi chưa từng thấy có bóng dáng của một người hành khất nào cả. Thỉnh thoảng “xuống phố” tôi có gặp một vài người ngồi khất thực ở va hè, có khi với một con thú cưng bên cạnh. Thuật ngữ “trước cng nhà” được Chúa Giêsu xử dụng trong bài dụ ngôn và được các vị giám mục công giáo Úc lập lại trong tài liệu có lẽ muốn nói lên sự kề cận, thiết thân của nỗi khổ của người đồng loại mà không ai có thể tránh né được. Dù cho con người khốn khổ ấy có ở cách xa tôi đến nửa vòng trái đất và tôi sẽ chẳng bao giờ mường tượng được khuôn mặt ấy như thế nào, người đó vẫn là tha nhân, là người “lân cận”, là người “láng giềng” (neighbour) của tôi. Tôi không thể thực sự hưởng hạnh phúc riêng tư của mình mà có thể nhắm mắt làm ngơ hay sống như thể không có những người khốn khổ trên mặt đất này. Xét cho cùng, hạnh phúc của tôi luôn có tính tương đối, theo nghĩa nó tùy thuộc vào ý thức của tôi về sự hiện hữu và nhứt là nỗi khổ của người khác. Đây là điều mà tôi cảm nhận được khi nghe lại bài dụ ngôn về “Lazarô và người phú hộ” hay người hành khất “trước cng nhà tôi”.
Tôi luôn tin có sự thưởng phạt về hành vi, thái độ sống của con người, nhứt là trong tương quan với tha nhân. Có thiên đàng  hay hỏa ngục, có niết bàn hay trầm luân sau cuộc sống tại thế này, điều đó còn tùy niềm tin tôn giáo của mỗi người. Nhưng bên kia niềm tin tôn giáo ấy, tôi vẫn luôn tin và cảm nhận rằng sự thưởng phạt diễn ra ngay trong cuộc sống này. Ngạn ngữ Anh nói: “Trao tặng tự nó đã là phần thưởng” (giving is its own reward). Khi tôi trao tặng cũng là lúc tôi nhận lãnh. Và thường phần thưởng tôi nhận được lúc nào cũng nhiều gp bội phần điều tôi trao tặng. Tiền bạc tự nó không thể mua hạnh phúc và nhứt là sự an bình cho tâm hồn tôi. Nhưng chắc chắn, đáp lại một chút đỉnh tôi trao tặng với tất cả tấm lòng trân trọng và vô vị lợi của tôi, tôi nhận được niềm hạnh phúc mà tiền bạc không bao giờ mua được. Hạnh phúc của tôi tùy ở sự trao tặng của tôi. Tôi có an bình nội tâm hay không tùy ở tấm lòng quảng đại của tôi. Thiên đàng mở ra cho tôi ngay khi tôi biết mở rộng tâm hồn và đôi bàn tay để trao tặng. Ngược lại, tôi cũng sẽ bị trầm luân trong dày vò và ray rứt ngay khi tôi nhắm mắt làm ngơ trước người khốn khổ đang ở “trước cng nhà tôi”.
Tôi vẫn luôn xác tín về câu nói của ai đó: “Chẳng có ai giàu có đến độ không cần sự giúp đỡ của người khác và cũng chẳng có ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng cho người khác.” Đức Phật cũng đã từng dạy như thế. Chuyện kể rằng một hôm có một người nghèo đến hỏi Đức Phật: “Tại sao con phải nghèo như thế này?” Đức Phật nói: “Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác”. Người ấy thắc mắc: “Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí”. Đức Phật liền dạy: “Cho dù con hoàn toàn không có gì, con cũng vẫn có thể bố thí 7 điều này: 1. Nhan thí: bố thí nụ cười. 2. Ngôn thí: bố thí ái ngữ, nói lời hay. 3. Tâm thí: bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. 4. Nhãn thí: bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ. 5. Thân thí: bố thí hành động nhân ái. 6. Tọa thí: bố thí nhường chỗ cho người cần. 7. Phòng chí: bố thí lòng bao dung.”
“Nghèo nàn”, dù là vật chất hay tinh thần, cũng có thể là một quà tặng cho người khác. Tôi nghĩ đến người đàn ông Á châu thường đứng chỉ đường vào mỗi trưa Chúa nhựt tại ngã tư Arthur St và Centenary Drive gần nghĩa địa Lidcombe. Tôi tin chắc ông là một người mắc bệnh tâm thần. Cứ mỗi trưa Chúa nhựt, khi dừng lại chờ đèn ở ngã tư này, tôi đều thấy ông đeo một tấm bảng có nụ cười toe trước ngực, đứng ở một góc đường và làm những động tác của một người cảnh sát công lộ để hướng dẫn giao thông. Cứ mỗi lần nhìn thấy người đàn ông “tự nguyện” làm cảnh sát công lộ này, tôi nghĩ đến niềm vui và sự an bình mà ông đang có. Dường như ông muốn san sẻ niềm hạnh phúc ấy cho người qua lại và đồng thời cũng nhắc nhở họ phải cẩn thận khi lái xe. Không biết tại sao tôi luôn nghĩ về người đàn ông này với tất cả sự tôn trọng và lòng biết ơn. Lâu rồi, có lẽ cũng hơn nửa năm, tôi không còn gặp lại ông. Ông bị tai nạn rồi chăng hay không chừng đã bị đưa vào một nhà dưỡng lão cũng có. Nhưng hình ảnh của người đàn ông đứng chỉ đường ở ngã tư này vẫn còn ngự trị trong tâm trí tôi. Ông đúng là một người đang ở “trước cng nhà tôi”. Ông mang lại cho tôi quà tặng của niềm vui và sự an bình, nhưng ông cũng không ngừng “tra vấn” tôi.
Tôi chợt nghĩ: bất cứ con người khốn khổ nào ở “trước cng nhà tôi” cũng đều là một quà tặng quý giá cho tôi, bởi vì họ hiện diện như một lời nhắc nhở cho tôi rằng chỉ có sự trao tặng mới mang lại cho tôi niềm hạnh phúc và an bình đích thực mà thôi.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét