Chu
Thập
01.10.13
Hàng
năm, cứ hết mùa Đông là tôi bắt đầu dọn dẹp lại tủ quần áo. Mỗi lần làm động
tác này tôi lại thấy mình già thêm một chút. Người già thường “sinh tật” dè xẻn
đến độ hà tiện. Tôi nhận ra nét già nua ấy khi nhìn lại tuổi của cái đống quần
áo. Có cái đã 20 năm mà tôi vẫn cứ giữ. Chẳng có chút kỷ niệm nào cả, mà chỉ vì
tiếc cho nên không muốn cho nó “tái sinh” thôi. Cho hội St Vincent hay
Salvation Army thì lại thấy bất xứng. Thực ra, tôi vẫn luôn làm bài tính: nếu không “chạy theo” thời trang,
mỗi năm tôi có thể dành dụm được một chút đỉnh để gởi về giúp người thân còn ở
Việt Nam, tặng cho các hội từ thiện hoặc bảo trợ cho một em bé nghèo tại Á châu
hay Phi châu. Không những thế, tôi
còn có thể “ki cóp” thêm một khoản tiền nữa:
Mỗi tháng tôi nhờ nhà
tôi đè đầu ra để tân trang lại mái tóc muối nhiều hơn tiêu. Vừa khỏi phải mất giờ đi tiệm
mà còn tiết kiệm được mười mấy Đô. Xấu mặt thì lâu chớ xấu
đầu thì mấy lát. Nghĩ như thế cho nên tôi không phải mất giờ và tốn tiền để o bế
mái tóc mà lại để dành được chút đỉnh để làm “công quả”.
Thật
ra, đâu phải bắt đầu già như tôi mới dở tính trùm sò. Đọc tin tôi thấy có biết
bao nhiêu tỷ phú trên thế giới này xem ra còn “trùm sò” hơn tôi đến cả tỷ lần. Như nhà tài phiệt địa ốc Warren
Buffet chẳng hạn: với tổng tài sản lên đến 47 tỷ nhưng vẫn tiếp tục sống trong
ngôi nhà nhỏ mà ông đã mua với giá chỉ có 31 ngàn Mỹ Kim từ hơn 50 năm trước.
Trùm sò như tỷ phú này quả là đáng tôn thành thánh sống, bởi vì ông đã trao tặng
hầu hết tài sản của mình cho các công việc từ thiện.
Tỷ
phú Frederik Meijer cũng nổi tiếng “keo kiệt”. Xuất thân từ một gia đình nghèo,
nhà tỷ phú đang có trong tay đến cả 5 tỷ này chọn những chiếc xe tiết kiệm
nhiên liệu nhứt và mặc những bộ quần áo rẻ tiền nhứt từ hệ thống các cửa hàng
do mình làm chủ.
Nhưng
đáng đề cao nhứt có lẽ là tỷ phú Chuck Feeney. Ông đã từng đóng góp cho các tổ
chức từ thiện chuyên chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, nhưng luôn muốn giấu
tên. Nhà tỷ phú này “trùm sò” đến độ không sắm bất cứ chiếc xe hơi hay ngôi nhà
riêng nào. Khi được hỏi lý do tại sao ông vẫn đi tàu điện ngầm và tiết kiệm tiền
để bí mật làm từ thiên, ông giải thích: “Không ai có thể mang tiền theo xuống mồ
cả”.
Riêng
tôi phục lăn tỷ phú David Cheriton. Là một giáo sư tại đại học nổi tiếng
Stanford, tiểu bang California, Hoa Kỳ, ông Cheriton bỏ túi không dưới một tỷ Mỹ
kim nhờ cổ phiếu của Google. Nhưng ông tỷ phú này hơn tôi ở chỗ là tự cắt tóc
cho mình. Ông vẫn sống trong ngôi nhà cũ kỹ mua từ năm 1981 và tự lái chiếc xe
Volkswagen đời 1986. Vậy mà năm 2005, ông tặng 25 triệu cho trường đại học
Waterloo để trang bị máy tính.
Nói
về xe hơi, thì hai anh em ông Karl và Theo Albrecht người Đức, đồng sáng lập
chuỗi
siêu thị Aldi với chủ trương giảm giá sản phẩm tối đa, còn đi xa hơn. Mặc dù có
tổng tài sản lên đến 50 tỷ Mỹ kim, họ vẫn sống trong một ngôi nhà khiêm tốn và
nhứt là vẫn lái chiếc xe Volkwagen đời 1980.
Thế
giới không thiếu những người giàu có “trùm sò” như thế. Có người ăn tiêu dè xẻn,
có người đi lượm từng ve chai, lon thiếc để bán kiếm tiền và đóng góp vào các công
việc từ thiện. Vì không còn cơ hội
làm tỷ phú nên tôi có trùm sò một chút để có thể ra tay “hào phóng” kể ra cũng
không có gì là “bất thường”.
Chúa
nhựt vừa rồi, tôi được nghe lại bài Tin Mừng về một tên “trùm sò” thứ thiệt.
Bài dụ ngôn có tựa đề “Lazarô và người phú hộ” kể lại câu chuyện của một người
giàu có ngày ngày yến tiệc linh đình, bất kể có một người hành khất tên là
Lazarô, ghẻ lỡ đầy
mình, ngày ngày ở trước cổng
nhà ông, chỉ mong được ăn những miếng bánh vụn rơi từ bàn ăn xuống mà cũng chẳng
được. Hai người cùng chết trong một đêm: người giàu có bị trầm luân, còn người nghèo được lên thiên đàng.
Nhân
bài dụ ngôn này, các vị giám mục Úc Đại Lợi cho công bố một lời kêu gọi với tựa
đề “Lazarus at our gate” (Lazarô trước cổng nhà chúng ta). Đọc tài liệu này, tôi biết
rằng tính cho đến năm 2015, trên thế giới vẫn còn có khoảng gần một tỷ người sống
với thu nhập mỗi ngày không tới 1.25 Úc kim. Hơn 250 ngàn phụ nữ vẫn chết khi
sinh con. Mỗi năm có đến 8 triệu trẻ em chết vì suy dinh dưỡng và những chứng bệnh
có thể phòng ngừa được như đi tả, ban sởi đỏ và sốt rét. Trên thế giới, cứ 8
người thì có một người bị thiếu dinh
dưỡng.
Tài
liệu của các nhà lãnh đạo công giáo Úc cũng nhắc lại rằng năm 2000, các nhà
lãnh đạo của 189 quốc gia trên khắp thế giới đã gặp nhau và cam kết giải quyết
vấn đề nghèo đói trên thế giới. Bản tuyên ngôn mang chữ ký của các nhà lãnh đạo
thế giới đã đưa ra điều được gọi là 8 “Mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ” (Millenium Development
Goals) phải đạt cho bằng được vào năm 2015. Đã có những bước tiến đáng kể trong
việc thực hiện những mục tiêu của thiên niên kỷ. Nhưng xem ra còn lâu thế giới
mới thực hiện trọn vẹn mục tiêu đầu tiên là tận diệt sự nghèo đói cùng cực vào
năm 2015. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước giàu và các nước nghèo, giữa
người giàu và người nghèo trong cùng một nước, nhứt là ở những nước nghèo nàn mạt rệp như Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam…hiện vẫn còn là một trời một vực. Tôi biết rằng nếu tôi có một
tủ lạnh để dự trữ thức ăn, một cái giường để ngủ và một mái nhà để trú nắng che
mưa thì tôi vẫn là người giàu có hơn 75 phần trăm dân số trên thế giới.
Phải
nhìn nhận rằng kể từ khi tất cả các nhà lãnh đạo quốc gia trên khắp thế giới đã
biết ngồi lại với nhau để đề ra những “mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ” tỷ
lệ của những người sống trong nghèo nàn cùng cực đã giảm đi được một nửa. Năm
1990, có đến 47 phần trăm dân số thế giới sống trong cảnh nghèo cùng, nghĩa là phải sống bằng
thu nhập mỗi ngày dưới 1.25 Úc kim. Năm 2008, tỷ lệ này chỉ còn 24 phần trăm.
Dĩ
nhiên, nghèo không chỉ đơn thuần là nghèo tiền. Bên cạnh cái nghèo về tiền, còn
có biết bao nhiêu hình thức nghèo khác như nghèo giáo dục, nghèo những dịch vụ
xã hội, nghèo nhân quyền, nghèo tự do, nghèo hòa bình, nghèo về những cơ hội được
sống và đạt được mục đích tối hậu của phát triển là hạnh phúc.
Tài
liệu của các vị giám mục Úc Đại Lợi về muôn mặt của sự nghèo nàn trên thế giới
ngày nay và hình ảnh của ông “trùm sò” được Chúa Giêsu mô tả trong bài dụ ngôn
mà trên một tỷ người công giáo, trong đó có tôi, đã nghe hôm Chúa nhựt vừa qua,
không khỏi gợi lên cho tôi thái độ dửng dưng, mùa lòa, điếc lác, chai lì của chính tôi trước nỗi khốn khổ của những người
“đang ở trước cổng
nhà tôi”. Dĩ nhiên, trong cái xóm nhỏ của tôi, tôi chưa từng thấy có bóng dáng
của một người hành khất nào cả. Thỉnh thoảng “xuống phố” tôi có gặp một vài người
ngồi khất thực ở vỉa
hè, có khi với một con thú cưng bên cạnh. Thuật ngữ “trước cổng nhà” được Chúa Giêsu xử
dụng trong bài dụ ngôn và được các vị giám mục công giáo Úc lập lại trong tài
liệu có lẽ muốn nói lên sự kề cận, thiết thân của nỗi khổ của người đồng loại
mà không ai có thể tránh né được. Dù cho con người khốn khổ ấy có ở cách xa tôi
đến nửa vòng trái đất và tôi sẽ chẳng bao giờ mường tượng được khuôn mặt ấy như
thế nào, người đó vẫn là tha nhân, là người “lân cận”, là người “láng giềng” (neighbour) của tôi. Tôi không thể thực
sự hưởng hạnh phúc riêng tư của mình mà có thể nhắm mắt làm ngơ hay sống như thể
không có những người khốn khổ trên mặt đất này. Xét cho cùng, hạnh phúc của tôi
luôn có tính tương đối, theo nghĩa nó tùy thuộc vào ý thức của tôi về sự hiện hữu
và nhứt là nỗi khổ của người khác. Đây là điều mà tôi cảm nhận được khi nghe lại
bài dụ ngôn về “Lazarô và người phú hộ” hay người hành khất “trước cổng nhà tôi”.
Tôi
luôn tin có sự thưởng phạt về hành vi, thái độ sống của con người, nhứt là
trong tương quan với tha nhân. Có thiên đàng
hay hỏa ngục, có niết bàn hay trầm luân sau cuộc sống tại thế này, điều
đó còn tùy niềm tin tôn giáo của mỗi người. Nhưng bên kia niềm tin tôn giáo ấy,
tôi vẫn luôn tin và cảm nhận rằng sự thưởng phạt diễn ra ngay trong cuộc sống
này. Ngạn ngữ Anh nói:
“Trao tặng tự nó đã là phần thưởng” (giving is its own reward). Khi tôi trao tặng
cũng là lúc tôi nhận lãnh. Và thường phần thưởng tôi nhận được lúc nào cũng nhiều
gấp
bội phần điều
tôi trao tặng. Tiền bạc tự nó không thể mua hạnh phúc và nhứt là sự an bình cho
tâm hồn tôi. Nhưng chắc chắn, đáp lại một chút đỉnh tôi trao tặng với tất cả tấm
lòng trân trọng và vô vị lợi của tôi, tôi nhận được niềm hạnh phúc mà tiền bạc
không bao giờ mua được. Hạnh phúc của tôi tùy ở sự trao tặng của tôi. Tôi có an
bình nội tâm hay không tùy ở tấm lòng quảng đại của tôi. Thiên đàng mở ra cho
tôi ngay khi tôi biết mở rộng tâm hồn và đôi bàn tay để trao tặng. Ngược lại,
tôi cũng sẽ bị trầm luân trong dày vò và ray rứt ngay khi tôi nhắm mắt làm ngơ
trước người khốn khổ đang ở “trước cổng
nhà tôi”.
Tôi
vẫn luôn xác tín về câu nói của ai đó: “Chẳng có ai giàu có đến độ không cần sự
giúp đỡ của người khác và cũng chẳng có ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng
cho người khác.” Đức Phật cũng đã từng dạy như thế. Chuyện kể rằng một hôm có một
người nghèo đến hỏi Đức Phật: “Tại sao con phải nghèo như thế này?” Đức Phật
nói: “Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác”. Người ấy thắc mắc: “Con
không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí”. Đức Phật liền dạy: “Cho dù con hoàn
toàn không có gì, con cũng vẫn có thể bố thí 7 điều này: 1. Nhan thí: bố thí nụ
cười. 2. Ngôn thí: bố thí ái ngữ, nói lời hay. 3. Tâm thí: bố thí tâm hòa ái,
lòng biết ơn. 4. Nhãn thí: bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ. 5. Thân thí: bố
thí hành động nhân ái. 6. Tọa thí: bố thí nhường chỗ cho người cần. 7. Phòng chí: bố thí lòng
bao dung.”
“Nghèo
nàn”, dù là vật chất hay tinh thần, cũng có thể là một quà tặng cho người khác.
Tôi nghĩ đến người đàn ông Á châu thường đứng chỉ đường vào mỗi trưa Chúa nhựt
tại ngã tư Arthur St và
Centenary Drive gần
nghĩa địa Lidcombe. Tôi tin chắc ông là một người mắc bệnh tâm thần. Cứ mỗi
trưa Chúa nhựt, khi dừng lại chờ đèn ở ngã tư này, tôi đều thấy ông đeo một tấm
bảng có nụ cười toe trước
ngực, đứng ở một góc
đường và làm những động tác của một người cảnh sát công lộ để hướng dẫn giao
thông. Cứ mỗi lần nhìn thấy người đàn ông “tự nguyện” làm cảnh sát công lộ này,
tôi nghĩ đến niềm vui và sự an bình mà ông đang có. Dường như ông muốn san sẻ
niềm hạnh phúc ấy cho người qua lại và đồng thời cũng nhắc nhở họ phải cẩn thận
khi lái xe. Không biết tại sao tôi luôn nghĩ về người đàn ông này với tất cả sự
tôn trọng và lòng biết ơn. Lâu rồi, có lẽ cũng hơn nửa năm, tôi không còn gặp lại
ông. Ông bị tai nạn rồi chăng hay không chừng đã bị đưa vào một nhà dưỡng lão
cũng có. Nhưng hình ảnh của người đàn ông đứng chỉ đường ở ngã tư này vẫn còn
ngự trị trong tâm trí tôi. Ông đúng là một người đang ở “trước cổng nhà tôi”. Ông mang lại
cho tôi quà tặng của niềm vui và sự an bình, nhưng ông cũng không ngừng “tra vấn”
tôi.
Tôi
chợt nghĩ: bất cứ con người khốn khổ nào ở “trước cổng nhà tôi” cũng đều là một
quà tặng quý giá cho tôi, bởi vì họ hiện diện như một lời nhắc nhở cho tôi rằng
chỉ có sự trao tặng mới mang lại cho tôi niềm hạnh phúc và an bình đích thực mà
thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét