Chu Thập
12/05/17
Gần đây, mỗi tuần đôi ba lần, trên con đường chạy bộ hàng
ngày, tôi thấy có 3 người phụ nữ tiếp tục làm công tác của “Ngày làm sạch Úc Đại
Lợi” (Clean up Australia Day). Một tay cầm một cây gậy nhỏ có chiếc móc nhọn, một
tay cầm một chiếc bị ni lông, họ vừa đi vừa nhặt rác rưởi, đồ phế thải vứt bừa bãi dọc đường. Điều quan trọng tôi đặc
biệt chú ý đến 3 người phụ nữ này là: lúc nào họ cũng tươi cười và chào hỏi mọi
người.
Tôi lại nghĩ đến đứa cháu ngoại 3 tuổi của bà chị tôi. Thấy người lớn làm bất cứ chuyện
gì nó cũng xáp tới đề nghị: “con muốn giúp đỡ” (I want to help, I am happy to
help). Tôi nghĩ: tự bản chất có lẽ ai cũng cảm thấy vui khi biết mình còn hữu dụng!
Đây là tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh
thần của Tây Tạng mà tôi đã đọc được
trên báo Reader’s Digest số ra tháng Năm 2017 này (x.The Dalai Lama and Arthur
C. Brooks, Behind Our Anxiety, the Fear
of Being Unneeded, Reader’s Digest, May 2017)
Nhận định về tình hình thế giới ngày nay, nhà lãnh đạo Phật
Giáo Tây Tạng nói rằng bạo động vẫn còn xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới và rất
nhiều người vẫn còn sống dưới nanh vuốt của các chế độ độc tài. Và mặc dù tất cả
mọi tôn giáo lớn trên thế giới đều dạy phải sống yêu thương, cảm thông và khoan
nhượng, nhưng thật không thể tượng được
là người ta lại nhân danh tôn giáo để gây bạo động.
Thế giới ngày nay có ít người nghèo hơn, có ít người đói
khổ hơn, có ít trẻ con chết hơn và ngày càng có nhiều người biết đọc biết viết
hơn. Tại nhiều nước, nhìn nhận quyền và phẩm giá người phụ nữ cũng như quyền của
các nhóm thiểu số đã trở thành luật pháp. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là tại một số
quốc gia giàu có, con người lại dễ chiều theo cơn phẫn nộ và thái độ bất mãn. Tại Hoa Kỳ, Anh Quốc và trải dài trên
khắp lục địa Âu Châu, dân chúng bất mãn với nhà cầm quyền và lo lắng cho tương
lai. Trong khi người tỵ nạn và di dân chỉ mong có cơ hội được sống trong những
xứ sở an toàn và thịnh vượng này thì chính những người đang sống trong những
vùng đất hứa ấy lại tỏ ra bất mãn và gần
như thất vọng về tương lai của họ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tự hỏi “tại sao?” và ngài đã dựa vào một
số cuộc nghiên cứu khoa học để mang lại cho chúng ta câu trả lời. Theo ngài,
các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng những người công dân lớn tuổi mà không cảm
thấy hữu dụng cho người khác đều có nguy cơ chết sớm gần như cao gấp 2 lần so với
những người còn cảm thấy mình là người hữu dụng. Đức Đạt Lai Lạt Ma kết luận:
“Điều này nói lên một sự thật căn bản về con người: tất cả chúng ta đều cảm thấy
muốn được hữu dụng”, nghĩa là cảm thấy hạnh phúc và nhận ra ý nghĩa của cuộc đời
khi thấy mình còn hữu dụng cho người khác.
Vị Ban thiền Lạt Ma thứ 14 giải thích rằng cảm thấy hữu dụng
không có nghĩa là ích kỷ, tự kiêu hay tìm kiếm sự tán thưởng của người khác mà
trái lại là một nhu cầu tự nhiên muốn phục vụ người đồng loại. Ngài trích dẫn
câu nói của một nhà hiền triết Phật Giáo
ở Thế kỷ 13: “Nhóm lên một ngọn lửa cho
người khác cũng chính là soi đường cho chính mình”.
Tất cả mọi tôn giáo lớn trên thế giới đều dạy rằng phục vụ
người khác là điều cao quý nhứt trong bản tính con người và như vậy cũng mang lại
hạnh phúc cho con người. Các cuộc thăm dò và nghiên cứu khoa học cũng chứng
minh điều đó. Những người Mỹ nào đặt việc phục vụ người khác lên hàng ưu tiên đều
cho biết họ rất hài lòng về cuộc sống của mình. Tại Đức, những người tìm cách
phục vụ xã hội cũng nói rằng họ hạnh phúc. Tỷ lệ của những người được hạnh phúc
như thế cao gấp 5 lần những người không xem trọng việc phục vụ. Phục vụ vô vị lợi
và niềm vui luôn đan xen với nhau. Càng cảm thấy gần gũi với người khác, chúng
ta càng cảm thấy hạnh phúc hơn.
Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, đây chính là lý do tại sao đau
khổ và giận dữ là điều rất phổ biến trong các nước giàu có hiện nay. Vấn đề
không phải là vì họ thiếu thốn của cải vật chất, mà chính là cảm thấy mình
không còn hữu dụng cho xã hội nữa.
Tại Hoa Kỳ ngày nay, so với 50 năm trước, số người không
có công ăn việc làm ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên, tình trạng này không chỉ xảy
ra tại các nước phát triển và hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế. Cảm thấy
mình thừa thãi vô dụng là một chấn thương nặng đối với con người. Cảm giác này
đưa con người đến chỗ cô đơn và tạo điều kiện cho những cảm xúc tiêu cực phát
sinh.
Làm gì để vượt qua tình trạng này? Đức Đạt Lai Lạt Ma cho
rằng câu trả lời hoàn toàn có tính cách cá nhân. Mỗi người, ai cũng có một giá
trị để chia sẻ. Mỗi người cần phải bắt đầu mỗi ngày bằng cách tự hỏi: “Hôm nay
tôi có thể làm gì để đón nhận những món quà mà người khác trao tặng cho
tôi?” Tình huynh đệ đại đồng không phải
là một ý tưởng trừu tượng, mà phải là một cam kết mà mỗi người cần phải làm mỗi
ngày. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thực hiện cam kết đó cho đến khi
nó trở thành một thói quen. Nhưng dĩ nhiên những người đang có trách nhiệm đặc
biệt trong xã hội cần phải xây dựng những xã hội trong đó tất cả mọi người đều
có một chỗ đứng và cảm thấy mình là người hữu dụng. Các nhà lãnh đạo cần phải
nhìn nhận rằng một xã hội biết cảm thông phải tạo ra vô số cơ hội cho những
công việc có ý nghĩa để mỗi người còn có khả năng đóng góp đều có thể làm được.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng “một xã hội biết cảm thông phải
cung cấp cho trẻ con một nền giáo dục và một sự đào luyện làm cho cuộc sống của
chúng được phong phú cả về những kỹ năng thực tế cũng như sự hiểu biết về những
giá trị đạo đức. Chỉ có như thế chúng mới cảm thấy an toàn về đời sống kinh tế
và có được an bình nội tâm. Một xã hội biết cảm thông phải bảo vệ những thành
phần dễ bị tổn thương bằng cách đề ra những chính sách không lừa con người vào
khốn khổ và lệ thuộc”.
Dĩ nhiên xây dựng được một xã hội như thế không phải là
điều dễ dàng. Không có ý thức hệ hay đảng phái chính trị nào nắm giữ mọi giải pháp. Thật ra, con người vẫn có thể kết
bạn với nhau và hợp tác với nhau mà không nhứt thiết phải có cùng quan điểm
chính trị hay ngay cả cùng một tôn giáo. Chỉ cần biết cảm thông, chấp nhận phẩm
giá con người, nhận ra sự hữu ích nội tại của mỗi một con người cũng đủ để xây
dựng một thế giới tốt đẹp và có ý nghĩa hơn.
Với cái nhìn lúc nào cũng lạc quan, Đức Đạt Lai Lạt Ma
cho rằng ngọn lửa của bất mãn và giận dữ đang quét qua các xã hội đã từng được
xem là an toàn và thịnh vượng cho thấy con người thời đại không hài lòng với của
cải vật chất họ đang có. Họ muốn nói lên rằng họ đang đói khát một của ăn tinh
thần sâu xa hơn: đó là muốn được hữu dụng cho người khác!
Đức Đạt Lai Lạt Ma kêu gọi: “Chúng ta hãy bắt tay nhau
xây dựng một xã hội biết nuôi dưỡng sự khao khát ấy”.
Có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra lời kêu gọi trên đây
trong bối cảnh của phong trào dân túy đang lên cao tại nhiều nước Tây Phương hiện
nay. Từ Brexit bên Anh đến hiện tượng Donald Trump bên Mỹ và cơn sốt Marine Le
Pen tại Pháp, người ta thấy một mẫu số chung: chính trị gia dân túy nào cũng
gãi đúng chỗ ngứa của phẫn nộ, bất mãn và bài ngoại của nhiều người dân.
Riêng tại Hoa Kỳ, tinh thần bài ngoại và chống di dân
không chỉ mới xuất hiện với Tổng thống Donald Trump. Cách đây hơn 70 năm, một người
tỵ nạn nổi tiếng tên là Anne Frank (1929-1945) cũng đã từng bị từ chối vào nước
Mỹ chỉ vì thành kiến và những nỗi sợ hãi vô lý của người dân. Theo những tài liệu
mới được tìm thấy năm 2012, cha của Anne Frank, ông Otto Frank đã gởi nhiều lá thư đến các viên chức Mỹ để xin
phép được cùng với gia đình di cư sang Hoa Kỳ. Đây là những lá thư mà ông Frank
đã gởi đi giữa tháng 4 và tháng 12 năm
1941, nghĩa là chỉ vài tháng sau khi Đức Quốc Xã xâm chiếm Hòa Lan, nơi mà gia
đình của ông đã từ Đức trốn sang để tá
túc.
Cuối năm 1941, sau khi lời kêu cứu bị từ chối, gia đình ông Frank đã phải đi lẩn
trốn trong vòng hai năm cho đến khi họ bị khám phá và đưa đến trại tập trung
Auschwitz, Ba Lan. Năm 1945, Anne và người
chị Margot đã chết vì bệnh thương hàn trong tại trại tập trung Bergen-Belsen.
Theo tài liệu, khoảng 10.000 trẻ em tỵ nạn Đức, đa phần
là Do Thái, đã cùng chia sẻ số phận với Anne Frank. Được biết ngay từ tháng
Giêng năm 1939, đã có đề nghị Hoa Kỳ nên đón tiếp số trẻ em này. Nhưng kết quả
của một cuộc thăm dò ý kiến cho thấy có đến 61 phần trăm dân số Mỹ chống lại đề
nghị, với lý do sợ Đức Quốc Xã cài gián điệp vào, nhưng lý do chính vẫn là sợ
những trẻ em này sẽ mang mầm mống tội phạm vào nước Mỹ. Dĩ nhiên, đàng sau những
lý do đó vẫn là óc bài ngoại và kỳ thị chủng tộc.
Với quyển nhựt ký đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng
trên thế giới, Anne Frank, dù chỉ là một cô gái vị thành niên, đã trở thành một
bậc thày nổi tiếng về nhân bản. Ai đó đã nói: “Không ai nghèo đến độ không có
gì để trao tặng và cũng chẳng có ai giàu có đến độ không còn gì để nhận lãnh”.
Riêng Anne Frank đã để lại một câu mà tôi cho là có thể tóm lược toàn bộ tư tưởng
nhân bản của cô. Anne Frank viết trong nhựt ký: “Chẳng bao giờ có ai nghèo hơn
vì trao tặng” (no one has ever become poor by giving).
Tính cho đến năm 2015, quyển nhựt ký của Anne Frank đã được
dịch sang tất cả 60 thứ tiếng trên thế giới. Chính cái nhìn sâu sắc và lạc quan
của cô gái 15 tuổi này đã thu hút được độc giả ở mọi nơi và mọi thời đại. Trong
2 năm lẩn trốn Đức Quốc Xã, bị hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, vậy mà
cô gái bắt đầu viết nhựt ký khi chỉ mới 13 tuổi này đã ghi lại trong nhựt ký của
mình: “Dù cho điều gì có xảy ra đi nữa, tôi vẫn còn tin rằng con người tự bản
chất thật sự tốt”.
Cái nhìn lạc quan của Anne Frank về tính “bản thiện” của
con người nhắc nhở tôi về những chân lý nền tảng trong cuộc sống: chẳng có ai
nghèo đến độ không có gì để trao tặng cho người khác và sự giàu có đích thực của
con người không hệ tại ở của cải vật chất, quyền thế và danh vọng. Nhưng thiết
yếu hơn cả, con người chỉ thực sự cảm thấy hạnh phúc khi họ biết mở rộng trái
tim và bàn tay để trao tặng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét