Thứ Sáu, 19 tháng 5, 2017

Không ai nghèo hơn vì trao tặng


Chu Thập
12/05/17

Gần đây, mỗi tuần đôi ba lần, trên con đường chạy bộ hàng ngày, tôi thấy có 3 người phụ nữ tiếp tục làm công tác của “Ngày làm sạch Úc Đại Lợi” (Clean up Australia Day). Một tay cầm một cây gậy nhỏ có chiếc móc nhọn, một tay cầm một chiếc bị ni lông, họ vừa đi vừa nhặt rác rưởi, đồ phế thải vứt bừa bãi dọc đường. Điều quan trọng tôi đặc biệt chú ý đến 3 người phụ nữ này là: lúc nào họ cũng tươi cười và chào hỏi mọi người.
Tôi lại nghĩ đến đứa cháu ngoại 3 tuổi  của bà chị tôi. Thấy người lớn làm bất cứ chuyện gì nó cũng xáp tới đề nghị: “con muốn giúp đỡ” (I want to help, I am happy to help). Tôi nghĩ: tự bản chất có lẽ ai cũng cảm thấy vui khi biết mình còn hữu dụng!
Đây là tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng mà tôi đã  đọc được trên báo Reader’s Digest số ra tháng Năm 2017 này (x.The Dalai Lama and Arthur C. Brooks,  Behind Our Anxiety, the Fear of Being Unneeded, Reader’s Digest, May 2017)
Nhận định về tình hình thế giới ngày nay, nhà lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng nói rằng bạo động vẫn còn xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới và rất nhiều người vẫn còn sống dưới nanh vuốt của các chế độ độc tài. Và mặc dù tất cả mọi tôn giáo lớn trên thế giới đều dạy phải sống yêu thương, cảm thông và khoan nhượng, nhưng  thật không thể tượng được là người ta lại nhân danh tôn giáo để gây bạo động.
Thế giới ngày nay có ít người nghèo hơn, có ít người đói khổ hơn, có ít trẻ con chết hơn và ngày càng có nhiều người biết đọc biết viết hơn. Tại nhiều nước, nhìn nhận quyền và phẩm giá người phụ nữ cũng như quyền của các nhóm thiểu số đã trở thành luật pháp. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là tại một số quốc gia giàu có, con người lại dễ chiều theo cơn phẫn nộ và thái độ  bất mãn. Tại Hoa Kỳ, Anh Quốc và trải dài trên khắp lục địa Âu Châu, dân chúng bất mãn với nhà cầm quyền và lo lắng cho tương lai. Trong khi người tỵ nạn và di dân chỉ mong có cơ hội được sống trong những xứ sở an toàn và thịnh vượng này thì chính những người đang sống trong những vùng đất hứa ấy  lại tỏ ra bất mãn và gần như thất vọng về tương lai của họ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tự hỏi “tại sao?” và ngài đã dựa vào một số cuộc nghiên cứu khoa học để mang lại cho chúng ta câu trả lời. Theo ngài, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng những người công dân lớn tuổi mà không cảm thấy hữu dụng cho người khác đều có nguy cơ chết sớm gần như cao gấp 2 lần so với  những người  còn cảm thấy mình  là người hữu dụng. Đức Đạt Lai Lạt Ma kết luận: “Điều này nói lên một sự thật căn bản về con người: tất cả chúng ta đều cảm thấy muốn được hữu dụng”, nghĩa là cảm thấy hạnh phúc và nhận ra ý nghĩa của cuộc đời khi thấy mình còn hữu dụng cho người khác.
Vị Ban thiền Lạt Ma thứ 14 giải thích rằng cảm thấy hữu dụng không có nghĩa là ích kỷ, tự kiêu hay tìm kiếm sự tán thưởng của người khác mà trái lại là một nhu cầu tự nhiên muốn phục vụ người đồng loại. Ngài trích dẫn câu nói của  một nhà hiền triết Phật Giáo ở  Thế kỷ 13: “Nhóm lên một ngọn lửa cho người khác cũng chính là soi đường cho chính mình”.
Tất cả mọi tôn giáo lớn trên thế giới đều dạy rằng phục vụ người khác là điều cao quý nhứt trong bản tính con người và như vậy cũng mang lại hạnh phúc cho con người. Các cuộc thăm dò và nghiên cứu khoa học cũng chứng minh điều đó. Những người Mỹ nào đặt việc phục vụ người khác lên hàng ưu tiên đều cho biết họ rất hài lòng về cuộc sống của mình. Tại Đức, những người tìm cách phục vụ xã hội cũng nói rằng họ hạnh phúc. Tỷ lệ của những người được hạnh phúc như thế cao gấp 5 lần những người không xem trọng việc phục vụ. Phục vụ vô vị lợi và niềm vui luôn đan xen với nhau. Càng cảm thấy gần gũi với người khác, chúng ta càng cảm thấy hạnh phúc hơn.
Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, đây chính là lý do tại sao đau khổ và giận dữ là điều rất phổ biến trong các nước giàu có hiện nay. Vấn đề không phải là vì họ thiếu thốn của cải vật chất, mà chính là cảm thấy mình không còn hữu dụng cho xã hội nữa.
Tại Hoa Kỳ ngày nay, so với 50 năm trước, số người không có công ăn việc làm ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên, tình trạng này không chỉ xảy ra tại các nước phát triển và hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế. Cảm thấy mình thừa thãi vô dụng là một chấn thương nặng đối với con người. Cảm giác này đưa con người đến chỗ cô đơn và tạo điều kiện cho những cảm xúc tiêu cực phát sinh.
Làm gì để vượt qua tình trạng này? Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng câu trả lời hoàn toàn có tính cách cá nhân. Mỗi người, ai cũng có một giá trị để chia sẻ. Mỗi người cần phải bắt đầu mỗi ngày bằng cách tự hỏi: “Hôm nay tôi có thể làm gì để đón nhận những món quà mà người khác trao tặng cho tôi?”  Tình huynh đệ đại đồng không phải là một ý tưởng trừu tượng, mà phải là một cam kết mà mỗi người cần phải làm mỗi ngày. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thực hiện cam kết đó cho đến khi nó trở thành một thói quen. Nhưng dĩ nhiên những người đang có trách nhiệm đặc biệt trong xã hội cần phải xây dựng những xã hội trong đó tất cả mọi người đều có một chỗ đứng và cảm thấy mình là người hữu dụng. Các nhà lãnh đạo cần phải nhìn nhận rằng một xã hội biết cảm thông phải tạo ra vô số cơ hội cho những công việc có ý nghĩa để mỗi người còn có khả năng đóng góp đều có thể làm được.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng “một xã hội biết cảm thông phải cung cấp cho trẻ con một nền giáo dục và một sự đào luyện làm cho cuộc sống của chúng được phong phú cả về những kỹ năng thực tế cũng như sự hiểu biết về những giá trị đạo đức. Chỉ có như thế chúng mới cảm thấy an toàn về đời sống kinh tế và có được an bình nội tâm. Một xã hội biết cảm thông phải bảo vệ những thành phần dễ bị tổn thương bằng cách đề ra những chính sách không lừa con người vào khốn khổ và lệ thuộc”.
Dĩ nhiên xây dựng được một xã hội như thế không phải là điều dễ dàng. Không có ý thức hệ hay đảng phái chính trị nào nắm giữ mọi  giải pháp. Thật ra, con người vẫn có thể kết bạn với nhau và hợp tác với nhau mà không nhứt thiết phải có cùng quan điểm chính trị hay ngay cả cùng một tôn giáo. Chỉ cần biết cảm thông, chấp nhận phẩm giá con người, nhận ra sự hữu ích nội tại của mỗi một con người cũng đủ để xây dựng một thế giới tốt đẹp và có ý nghĩa hơn.
Với cái nhìn lúc nào cũng lạc quan, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng ngọn lửa của bất mãn và giận dữ đang quét qua các xã hội đã từng được xem là an toàn và thịnh vượng cho thấy con người thời đại không hài lòng với của cải vật chất họ đang có. Họ muốn nói lên rằng họ đang đói khát một của ăn tinh thần sâu xa hơn: đó là muốn được hữu dụng cho người khác!
Đức Đạt Lai Lạt Ma kêu gọi: “Chúng ta hãy bắt tay nhau xây dựng một xã hội biết nuôi dưỡng sự khao khát  ấy”.
Có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bối cảnh của phong trào dân túy đang lên cao tại nhiều nước Tây Phương hiện nay. Từ Brexit bên Anh đến hiện tượng Donald Trump bên Mỹ và cơn sốt Marine Le Pen tại Pháp, người ta thấy một mẫu số chung: chính trị gia dân túy nào cũng gãi đúng chỗ ngứa của phẫn nộ, bất mãn và bài ngoại của nhiều người dân.
Riêng tại Hoa Kỳ, tinh thần bài ngoại và chống di dân không chỉ mới xuất hiện với Tổng thống Donald Trump. Cách đây hơn 70 năm, một người tỵ nạn nổi tiếng tên là Anne Frank (1929-1945) cũng đã từng bị từ chối vào nước Mỹ chỉ vì thành kiến và những nỗi sợ hãi vô lý của người dân. Theo những tài liệu mới được tìm thấy năm 2012, cha của Anne Frank, ông Otto Frank đã  gởi nhiều lá thư đến các viên chức Mỹ để xin phép được cùng với gia đình di cư sang Hoa Kỳ. Đây là những lá thư mà ông Frank đã gởi đi giữa  tháng 4 và tháng 12 năm 1941, nghĩa là chỉ vài tháng sau khi Đức Quốc Xã xâm chiếm Hòa Lan, nơi mà gia đình của ông đã  từ Đức trốn sang để tá túc.
Cuối năm 1941, sau khi lời kêu cứu  bị từ chối, gia đình ông Frank đã phải đi lẩn trốn trong vòng hai năm cho đến khi họ bị khám phá và đưa đến trại tập trung Auschwitz, Ba Lan. Năm 1945, Anne  và người chị Margot đã chết vì bệnh thương hàn trong tại trại tập trung Bergen-Belsen.
Theo tài liệu, khoảng 10.000 trẻ em tỵ nạn Đức, đa phần là Do Thái, đã cùng chia sẻ số phận với Anne Frank. Được biết ngay từ tháng Giêng năm 1939, đã có đề nghị Hoa Kỳ nên đón tiếp số trẻ em này. Nhưng kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến cho thấy có đến 61 phần trăm dân số Mỹ chống lại đề nghị, với lý do sợ Đức Quốc Xã cài gián điệp vào, nhưng lý do chính vẫn là sợ những trẻ em này sẽ mang mầm mống tội phạm vào nước Mỹ. Dĩ nhiên, đàng sau những lý do đó vẫn là óc bài ngoại và kỳ thị chủng tộc.
Với quyển nhựt ký đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới, Anne Frank, dù chỉ là một cô gái vị thành niên, đã trở thành một bậc thày nổi tiếng về nhân bản. Ai đó đã nói: “Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng và cũng chẳng có ai giàu có đến độ không còn gì để nhận lãnh”. Riêng Anne Frank đã để lại một câu mà tôi cho là có thể tóm lược toàn bộ tư tưởng nhân bản của cô. Anne Frank viết trong nhựt ký: “Chẳng bao giờ có ai nghèo hơn vì trao tặng” (no one has ever become poor by giving).
Tính cho đến năm 2015, quyển nhựt ký của Anne Frank đã được dịch sang tất cả 60 thứ tiếng trên thế giới. Chính cái nhìn sâu sắc và lạc quan của cô gái 15 tuổi này đã thu hút được độc giả ở mọi nơi và mọi thời đại. Trong 2 năm lẩn trốn Đức Quốc Xã, bị hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, vậy mà cô gái bắt đầu viết nhựt ký khi chỉ mới 13 tuổi này đã ghi lại trong nhựt ký của mình: “Dù cho điều gì có xảy ra đi nữa, tôi vẫn còn tin rằng con người tự bản chất thật sự tốt”.
Cái nhìn lạc quan của Anne Frank về tính “bản thiện” của con người nhắc nhở tôi về những chân lý nền tảng trong cuộc sống: chẳng có ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng cho người khác và sự giàu có đích thực của con người không hệ tại ở của cải vật chất, quyền thế và danh vọng. Nhưng thiết yếu hơn cả, con người chỉ thực sự cảm thấy hạnh phúc khi họ biết mở rộng trái tim và bàn tay để trao tặng.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét