Thứ Tư, 24 tháng 5, 2017

Xin cho tôi được thay đổi chính mình


Chu Thập
22.10.13
Đi lễ Chúa nhựt, tôi rất chăm chú lắng nghe bài giảng của vị linh mục. Đó là thức ăn tinh thần giúp tôi sống thêm một tuần. Hôm nào phải chịu trận một vị linh mục giảng “dở, dài, dai” thì coi như lỗ vốn. Có hôm không bắt hết ý nhưng nghe được một câu chuyện vui thì kể cũng như trúng lô an ủi! Như câu chuyện “tếu” được vị linh mục dùng để mở đầu bài giảng hôm vừa rồi, hễ cứ nhớ lại thì tôi cười một mình:
Một cậu bé thuộc loại tinh nghịch như tôi hồi nhỏ đã nghĩ ra một cách “bắt địa” Chúa thật độc đáo. Cậu có chiếc xe đạp đã đến lúc nên cho vào viện bảo tàng, nhưng vì gia đình nghèo nên không thể sắm cho cậu một cái mới. Nghe nói hễ xin thì sẽ được cho nên cậu liền lấy bút mực ra để viết thư cho Chúa. Cậu nắn nót được một lá thư với nội dung như sau: “Lạy Chúa, nội trong một tháng con hứa sẽ cố gắng tỏ ra “ngoan ngoãn”. Xin Chúa cho con một chiếc xe đạp mới”. Nhưng thấy một tháng là một thời hạn quá dài cho nên cậu liền sửa lại: “Lạy Chúa, nội trong hai tuần con hứa sẽ cố gắng tỏ ra “ngoan ngoãn”. Xin Chúa cho con một chiếc xe đạp mới”. Ngẫm nghĩ một lúc cậu lại thấy hai tuần lễ quá dài đối với một cậu bé ở tuổi cậu, cho nên cậu hạ thời gian sống “ngoan ngoãn” xuống còn hai ngày. Nhưng suy đi tính lại một lúc, cậu thấy dù chỉ phải cố gắng trong hai ngày cũng quá “mất công”. Nhìn quanh quẩn, cậu chợt thấy bức hình của Đức Mẹ Maria. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu. Cậu liền lấy bức ảnh nhét vào ngăn kéo, khóa lại, đút chìa khóa vô túi quần rồi viết tối hậu thư gởi cho Chúa: “Lạy Chúa, nếu Chúa còn muốn gặp lại Mẹ mình thì hãy cho con ngay tức khắc một chiếc xe đạp”.
Lúc nhỏ, trong quan hệ với bạn bè và xóm làng tôi tinh nghịch và ma mãnh đã đành, mà đối với Chúa có lẽ tôi cũng chẳng thua gì cậu bé trong câu chuyện trên đây. Cái lối cầu nguyện của cậu bé được vị linh mục gọi theo một kiểu nói rất “thời thượng” là “xách nhiễu” (harassment). Hồi giờ tôi chỉ nghe nói đến “xách nhiễu tình dục” và là chuyện chỉ xảy ra trong tương quan liên vị giữa người với người mà thôi. Dè đâu con người lại “xách nhiễu” cả Thiên Chúa và thần thánh nữa. Xét cho cùng, ngay cả khi đã bắt đầu bước xuống triền núi của cuộc đời, dường như tôi cũng vẫn còn là một cậu bé hay bắt địa Thiên Chúa. Cứ hễ gặp khó khăn hay lâm cảnh hoạn nạn, tôi lại nghĩ đến Ngài và d trò “thương lượng”: nếu tai qua nạn khỏi thì không xuống tóc đi tu con cũng xin chừa đủ thứ!
Nhiều lúc, nhìn lại quan hệ giữa tôi và Thiên Chúa, tôi cứ cười thầm một mình. Tôi đã tự tạo ra cho mình một Thiên Chúa mà tình yêu của Người có lẽ còn thua kém cả tình thương cha mẹ tôi dành cho tôi. Trên đời này, tình yêu vô vị lợi đầu tiên mà tôi cảm nhận được chính là tình yêu của cha mẹ tôi. Tôi được cha mẹ tôi yêu thương chẳng phải vì tôi thông minh đĩnh đạt hay là một đứa con ngoan. Tôi được chăm sóc, lo lắng và ngay cả được quà cáp mà chẳng cần phải mở miệng xin hỏi hay vòi vĩnh gì cả.
Vậy mà với một Thiên Chúa mà tôi luôn tuyên xưng như một Người Cha, tôi lại cứ phải mở miệng xin. Và tôi luôn coi Ngài như một cái kho báu vô tận. Xin hoài xin hủy mà vẫn chưa được thì tôi lại mang cái mặc cảm chưa sống “ngoan” như nhân vật cậu bé trong câu chuyện trên đây. Giữa cơn hoạn nạn, như gặp phong ba bão táp trong chuyến vượt biên chẳng hạn, bao nhiêu người bị chôn vùi giữa đại dương, còn tôi lại được sống sót. Tôi vẫn cứ tự hào rêu rao rằng vì tôi đã “kêu xin” và biết cách thương lượng cho nên Chúa đã nhậm lời và cứu lấy tôi. Tôi thành công và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống là do tôi “có đạo” và cố gắng sống đạo đức!
 Có thực sự Thiên Chúa đã thưởng công cho tôi không? Có thực sự vì tôi biết cách “xin xỏ” mà Thiên Chúa lúc nào cũng tra chìa khóa để mở kho tàng hồng ân và trao ban cho tôi không? Nhiều lúc trong thánh lễ, khi nghe trình bày những lời “cầu xin” , tôi lại thấy mình như người mộng du, chẳng biết mình đang ở đâu và làm gì. Đặc biệt trong mấy tuần lễ vừa qua, mặc dù tuổi trung bình của những thành phần tham dự thánh lễ có lẽ cũng trên 65, vậy mà lời cầu xin được lập lại nhiều lần vẫn được tập trung vào kỳ thi tốt nghiệp phổ thông năm nay. Tôi không biết có phải nhờ lời cầu xin này mà một số thí sinh sẽ đạt được điểm tối ưu không? Và tôi cũng chẳng biết tại sao một số thí sinh được chiếu cố rất nhiều trong những lời cầu xin này biết đâu lại chẳng đủ điểm để vào các phân khoa đại học mình mong đợi.
Tôi lại càng thấy mình bơ vơ hơn khi nghe những lời cầu xin cho tai qua nạn khỏi trong những trận cháy rừng đang xảy ra tại một số nơi trong tiểu bang New South Wales. Nhà tôi ở bên cạnh một lâm viên quốc gia. Tôi cũng đang canh cánh với một nỗi hiểm nguy thật sự cận kề (clear and present danger!). Mỗi ngày hướng nhìn lên đỉnh núi, nghe tiếng gió rít từng cơn trong khu rừng có thể bc cháy bất cứ lúc nào, tôi vẫn nghĩ đến Thiên Chúa Tạo Hóa. Thú thật tôi không biết từ trên cao Thiên Chúa đang nghĩ gì và dĩ nhiên, tôi cũng chẳng biết phải “cầu xin” như thế nào cho phải đạo. Chẳng lẽ tôi cầu xin cho nếu có cháy thì cháy ở nơi khác chứ đừng cháy ở sau nhà tôi?
Cứ nhìn lên trời cao thì con người lại thả lỏng cho óc tưởng tượng của mình muốn bay đi đâu thì bay. Có phải vì vậy mà từ ngàn xưa, người Hy Lạp đã có đủ chuyện thần thoại để kể cho chúng ta nghe không? Nhìn những ngọn lửa đang tàn phá từng mảnh rừng, từng dãy nhà và tài sản của dân chúng Úc trong những ngày này, tôi lại liên tưởng đến câu chuyện của thần Prometheus, kẻ vì ăn cắp lửa trời để mang ánh sáng văn minh xuống cho trần thế, đã bị ngọc hoàng Zeus cho treo trên một ngọn núi và bị kên kên rút rỉa lá gan mà không chết. Theo chuyện thần thoại này thì ngọc hoàng Zeus nặn ra loài người, một sinh vật yếu đuối, không có khả năng để tồn tại và tự bảo vệ trước sóng gió, bão bùng, nhứt là trước sự đe dọa của bao loài thú to lớn, có sừng, có nọc độc, có nanh vuốt, biết bay, biết leo trèo, biết bơi dưới nước. Vì thương loài người cho nên thần Prometheus muốn tìm cách làm cho cuộc sống của họ bớt cơ cực khổ sở hơn. Ngày nọ, Prometheus giết được một con bò béo. Nhưng ông đã đánh lừa ngọc hoàng Zeus bằng cách chỉ dọn lên những thứ dở nhứt trong con bò và dành phần béo b nhứt cho loài người. Ngọc hoàng Zeus tức giận cho nên mới thề sẽ không bao giờ trao lửa cho loài người để họ phải sống trong tối tăm, ngu dốt, khổ cực. Biết được ý định độc ác này cho nên một hôm lúc thiên đình vắng vẻ, Prometheus mới châm một ngọn lửa, giấu kín trong ruột một cây sậy, rồi phóng như bay xuống hạ giới. Ông trao ngọn lửa thiêng cho loài người. Ngay đêm hôm ấy, ngọc hoàng Zeus thấy dưới mặt đất có những đốm lửa tỏa sáng như sao trời. Ngọc hoàng uất ức hét lên: “Thế là loài người đã có lửa, ta không thể tiêu diệt được chúng nữa. Có lửa, chúng sẽ trở thành ngang hàng với thần thánh”. Ông liền ra lệnh phải trừng trị Prometheus cho bằng được. Ông cho giải Prometheus đến một đỉnh núi cao chót vót hoang vu và ra lệnh cho thợ rèn đóng đinh và xiềng Prometheus vào núi đá. Ban ngày, bị mặt trời thiêu đốt, đêm đến Prometheus lại phải chịu rét buốt thấu đến xương tủy. Ngày ngày, một con đại bàng khổng lồ đến mổ bụng và ăn lá gan của Prometheus. Nhưng cứ đêm đến thì lá gan lại mọc ra. Mặc dù trải qua những cực hình vô cùng tận ấy, Prometheus vẫn không chịu khuất phục. Ông vẫn hiên ngang và không hề mở miệng van xin bất cứ điều gì.Cuối cùng thì chính ngọc hoàng Zeus đành chịu thua. Ông ra lệnh bắn hạ con đại bàng và phá tan xiềng xích trên núi. Prometheus được trải tự do.
Có lẽ đây là một trong những câu chuyện ý nghĩa nhứt trong bộ thần thoại Hy Lạp. Qua hàng bao thế kỷ, nhứt là vào thời kỳ Văn nghệ Phục hưng tại Âu Châu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, Prometheus luôn được xem như biểu tượng của nền văn minh và tính bất khuất của con người.
Riêng tôi, tôi thường đọc lại câu chuyện này dưới nhãn quan tôn giáo. Nó đánh đổ những hình ảnh lệch lạc mà con người ở thời đại nào và ở đâu cũng đều tưởng tượng và thêu dệt về “thiên đình” hay thế giới vô hình trong đó thần thánh cũng có đủ mọi “ái, ố, hỉ, nộ, lạc, ai, dục” như loài người. Câu chuyện cũng gợi lên cho tôi câu nói quen thuộc của người Tây Phương: “bạn hãy tự giúp bạn, trời sẽ giúp bạn.” Tôi không chạy theo  chủ nghĩa khắc kỷ để bắt chước thi sĩ Pháp Alfred de Vigny (1797-1863) thốt lên: “rên r, khóc than đều là hèn nhát” (gémir, pleurer est également lâche). Cũng như nụ cười, tiếng khóc là thuộc tính của con người. Chỉ có con người mới biết thế nào là đau khổ cho nên mới khóc than. Và dĩ nhiên, cũng chính vì đau khổ mà con người chạy đến với một nguồn trợ lực mà họ không tìm thể tìm thấy được trong thế giới này. Gặp đau khổ tôi chạy đến với Đấng Tạo Hóa của tôi. Tôi không biết Ngài sẽ làm gì cho tôi. Nhưng tôi tin chắc rằng nếu Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu thì chắc chắn hơn bất cứ trái tim nào trên trần gian này, Ngài dành cho tôi một sự cảm thông mà tôi sẽ không bao giờ có thể cảm nhận được trên trần gian này.
Cố gắng suy nghĩ như thế cho nên tôi thấy mình phải không ngừng lột xác từ một cậu bé thích “xách nhiễu” và hay “mặc cả” để trở thành một con người trưởng thành hơn trong quan hệ với Đấng Tạo Hóa.
Tôi càng thâm tín với ý tưởng ấy khi bắt gặp trước cửa các siêu thị nhiều nhóm thiện nguyện đang quyên góp cho các nạn nhân của các vụ cháy rừng ở NSW. Đây chính là lúc tôi hiểu ra rằng mình phải “trưởng thành” hơn. Một phần nhỏ tôi đóng góp vào cuộc quyên góp chẳng là bao, nhưng nó cũng đủ để cho tôi cảm nhận được một sự thay đổi đang thực sự diễn ra trong tôi. Thế giới vẫn còn đy dẫy khổ đau. Một đồng xu nhỏ chia sẻ chỉ là một giọt nước trong đại dương bao la. Nhưng chính nhờ những giọt nước nhỏ ấy góp lại mà thế giới này mới có thể trở thành một nơi mát mẻ hơn, đáng sống hơn.
Cháy rừng, hỏa hoạn thiết yếu vẫn là một thiên tai. Có dự phòng đến đâu, Úc Đại Lợi vẫn không tránh khỏi thiên tai. Từ “trên cao”, Đấng Hóa Công mà chúng ta tưởng tượng với quyền năng vô song chỉ cần “phán” một lời là ngọn lửa hung tàn bị dập tắt ngay. Xem ra chẳng thấy Ngài nói hay làm gì hết. Nhưng nếu có một ý muốn, nếu có một lời Ngài muốn nói ra thì điều đó chỉ có thể là: loài người hãy lấy tình liên đới, lòng quảng đại, sự san sẻ chia sớt…mà đối xử với nhau trong cơn hoạn nạn.
Tôi tin có một Thiên Chúa như thế cho nên cũng như ai đó ở tuổi thanh niên đã luôn cầu xin cho mình thực hiện được cuộc cách mạng để biến đổi thế giới, thế rồi bước vào tuổi trưởng thành chợt nhận ra giới hạn của mình cho nên chỉ còn biết cầu xin cho được làm cho gia đình mình thành một nơi tốt đẹp hơn và cuối cùng khi bước vào xế bóng cuộc đời, khi thấy mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết cầu xin cho được thay đổi chính con người của mình…tôi chỉ mong cho mình được biết mãi mãi cầu xin như thế.
Cám ơn vị linh mục đã chia sẻ cho tôi một ý nghĩ để sống một tuần: ông nói rằng một tín hữu trưởng thành phải là người chỉ xin một điều duy nhứt là biết thay đổi chính bản thân.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét