Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

Người bạn câu của tôi



Chu Thập
06.08.13


Mùa đông, cá mắm chỗ tôi kéo nhau đi “nghỉ hè” hết cho nên tôi thất nghiệp. Thỉnh thoảng, ghiền quá, xách cần đi, rồi lại mang cần về không. Ba tháng mùa Đông đối với tôi cũng giống như 3 tháng ở cái thời còn hát bài “mỗi năm đến Hè lòng man mác buồn”: nhớ trường, nhớ lớp, nhớ ghế và nhứt là nhớ bạn bè! Chỉ mong cho hết Hè để gặp lại bạn bè.
Trong “trường câu”, tôi có một người bạn mà tôi cũng chỉ mong cho hết mùa Đông để được gặp lại. Tên của anh là Brett. Sáng thứ Bảy nào chúng tôi cũng gặp nhau ở bãi câu. Lúc nào anh cũng cười. Nhìn hàm răng với một số “cửa ngỏ” bỏ trống, tôi biết chắc Brett không phải là dân “cổ trắng” và trong giới “cổ xanh” thì có lẽ thứ bậc của anh cũng chẳng cao lắm. Còn đánh giá về cách chọn chỗ câu hay quăng cần, tôi nghĩ anh không phải là dân chuyên nghiệp. Không câu được cá, nhưng “câu người” thì tôi nghĩ ở cái bãi câu quen thuộc nơi chúng tôi thường gặp nhau, chẳng ai có thể qua mặt được anh.
Hừng đông vừa ló dạng, dân chạy bộ tấp nập kẻ qua người lại. Vậy mà hầu như người nào cũng được ông bạn câu của tôi chào hỏi và ai cũng dừng lại trao đổi năm ba câu với anh. Đứng bên cạnh, nhưng nghe cái giọng tiếng Anh “Miệt Dưới” rặc của họ, tôi không nắm bắt hết câu chuyện. Nhưng cả ông bạn tôi lẫn người khách qua đường đều cười dòn tan. Một ngày mới được đánh dấu bằng những nụ cười như thế  hẳn phải là một khởi đầu tốt đẹp.
Có lần tôi “bốc thơm” Brett: “Này ông bạn, nói cho tôi biết bí quyết nào giúp ông bạn trở thành người “nổi tiếng” (popular) trong vùng này như thế?” Vẫn với nụ cười rất hồn nhiên và dường như không bao giờ tắt trên môi, anh giải thích rằng lúc nào anh cũng cười và chào hỏi người ta trước, bất luận là quen biết hay xa lạ.
Mỗi sáng cuối tuần, dù đầu óc có bị căng thẳng đến đâu, cứ gặp lại Brett là tôi cảm thấy như trút bớt được một gánh nặng và nạp vào đầu óc một ít năng lượng, một chút cảm hứng để tiếp tục sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Brett lúc nào cũng mang lại cho tôi nguồn cảm hứng. Tôi tin rằng một người lúc nào cũng nở nụ cười trên môi và gặp bất kỳ ai cũng có thể chào hỏi, chỉ có thể là một người hạnh phúc và có cái tâm an bình mà thôi. Tôi mong lúc nào cũng được như thế.
Qua người bạn câu này, tôi xác tín rằng hạnh phúc nằm trong cái tâm của con người hơn là những điều kiện vật chất. Ai cũng đi tìm hạnh phúc. Sách vở báo chí, văn chương, nghệ thuật và ngay cả khoa học tốn không biết bao nhiêu công sức và giấy mực để bàn về đề tài này. Nhưng dường như người ta đi “vòng vòng” chung quanh vấn đề hơn là đi vào cốt lõi của nó.
Trong hai số nhập một ngày 8 và 15 tháng 7 vừa qua, tạp chí Time lại bàn đến vấn đề này một lần nữa. Sau khi trích dẫn nhiều cuộc nghiên cứu, cuối cùng tạp chí này cũng chỉ lập lại một luận đề cũ rích về hạnh phúc: “Muốn hạnh phúc hãy làm giàu”. Tiền bạc có thể mua hạnh phúc. Đây là khẩu hiệu mà tôi đã từng học được khi vừa đặt chân đến trại tỵ nạn ở Galang, Nam Dương hồi đầu thập niên 1980. Để khuyến khích người tỵ nạn học Anh ngữ (bởi vì hầu hết các nước được người tỵ nạn chọn làm quê hương mới đều nói tiếng Anh), người ta giăng khắp nơi khẩu hiệu: “No English, no Job. No Job no Money. No Money no Happiness” (Không biết tiếng Anh, không có việc làm. Không có việc làm, không có tiền. Không có tiền không có hạnh phúc). Trong một mức độ nào đó và trong một số hoàn cảnh nào đó, tiền bạc quả thật mang lại hạnh phúc cho con người. Thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, con người khó có thể sống xứng với phẩm giá con người. Mà bần cùng thì dễ sinh ra đạo tặc. Một cuộc sống nghèo đói có thể đẩy con người vào đường cùng, làm điều thất đức và như vậy khó có được an vui và hạnh phúc. Nhưng cuộc sống cũng không ngừng chứng minh rằng ngay cả trong những hoàn cảnh túng cực nhất, vẫn có những người sống hạnh phúc và an lạc. Cứ đến những nước nghèo nàn, mạt rệp như Việt Nam chẳng hạn, để phỏng vấn dân chúng, người ta sẽ thấy rằng người dân ở đây có khi lại cảm thấy hạnh phúc hơn tại những nước giàu. Trong chốn tù đày khốn khổ, đâu thiếu những người vẫn giữ được cái tâm an bình và niềm vui sống. Như bản tuyên ngôn độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã khẳng định, đi tìm hạnh phúc là quyền của mỗi người. Các chế độ độc tài có thể tước đoạt những quyền cơ bản nhứt của con người như quyền tư hữu, quyền đi lại, quyền tự do ngôn luận và phát biểu…nhưng quyền được hạnh phúc thì chẳng có quyền lực nào trên trần gian này có thể cướp đoạt của con người, bởi vì quyền này nằm sâu kín trong tâm hồn con người. Đó là kho tàng quý giá nhứt còn lại của con người sau khi tất cả mọi thứ quyền khác bị tước đoạt. Tôi có thể mất tất cả mọi sự mà vẫn có thể cảm thấy hạnh phúc! Có một yếu tố khác có thể làm cho tôi hạnh phúc chớ không phải chỉ có tiền bạc hay những điều kiện vật chất. Tiền bạc có thể mang lại hạnh phúc mà cũng là nguyên nhân gây ra bao nỗi khốn khổ cho con người.
Bàn về hạnh phúc, trên báo The Sydney Morning Herald, số ra ngày 25 tháng 7 vừa qua, tôi cũng đọc được một bài viết có tựa đề “Happiness: not to be taken for granted” (hạnh phúc: không phải tự nhiên mà có). Tác giả của bài báo, ký giả Amy Gray nêu lên câu hỏi: “Người dân Úc bỏ ra hàng triệu triệu đồng cho việc học hỏi, chữa trị, dinh dưỡng…để được hạnh phúc hơn. Nhưng liệu họ có thực sự tìm kiếm những điều làm cho họ hạnh phúc không?”
Tác giả nhắc đến một cuộc nghiên cứu nổi tiếng về hạnh phúc có tên là “The Grant Study”. Cuộc nghiên cứu tìm hiểu cuộc sống của những người đã từng tốt nghiệp từ Đại học danh giá Harvard của Hoa Kỳ kể từ năm 1937. Qua một loạt những trắc nghiệm và câu hỏi về sức khỏe thể lý và tâm lý, người thực hiện cuộc nghiên cứu là chuyên gia tâm lý George Valiant đi đến kết luận: có một con đường dẫn đến hạnh phúc! Và con đường đó, theo ông Valiant, chính là tuổi thơ! Sinh viên nào đã có được một tuổi thơ tốt đẹp, nghĩa là được lớn lên trong những quan hệ gia đình ấm cúng, đều có một công việc tốt với thu nhập trung bình cao hơn người khác đến trên 80 ngàn đồng mỗi năm. Họ có cuộc sống hạnh phúc và ít có nguy cơ bị bệnh “lú lẫn” (dementia) hơn người khác. Vivek Wagle là một trường hợp điển hình. Từ một gia đình nghèo bên Ấn Độ, nay ông Wagle đã có một cuộc sống sung túc tại Hoa Kỳ. Ông giải thích rằng sở dĩ ông thành công trong học vấn và nghề nghiệp là bởi vì ông đã được sinh ra và lớn lên trong một gia đình đầy ắp tình thương và sự bao bọc lẫn nhau.
Nhưng theo ký giả Gary, đối với những người không được may mắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình đầm ấm, hạnh phúc cũng không bao giờ là điều nằm ở ngoài tầm tay với. Có biết bao nhiêu người đã từng trải qua một tuổi thơ bất hạnh nhưng vẫn có thể thành đạt, có được cuộc sống hạnh phúc. Chính khả năng thích ứng với những khó khăn trong cuộc sống mới tạo ra cơ may thành công và mang lại hạnh phúc cho họ.
Ký giả Gary trích dẫn trường hợp của bà J’aimée Skippon Volke, người chuyên tổ chức Liên hoan phim nổi tiếng Byron Bay, NSW. Bà Volke cho biết: ở tuổi thiếu niên, bà đã có lần toan tự tử. Theo bà, cách thế con người thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống quyết định về hạnh phúc của họ.
Cuộc nghiên cứu “Grant Study” của ông Valiant cho thấy cuộc sống của chúng ta được quyết định từ cách chúng ta đáp ứng với những căng thẳng hay chấn thương trong cuộc sống. Những phản ứng thiếu trưởng thành sẽ dẫn đến những khó khăn trong quan hệ của chúng ta với người khác. Trái lại, khi đứng trước những khó khăn của cuộc sống, nếu chúng ta luôn phản ứng với óc khôi hài, lòng vị tha và lạc quan…chúng ta dễ cảm thấy hạnh phúc hơn.
Tựu trung, theo ông Valiant, tất cả mọi yếu tố mang lại hạnh phúc cho con người đều quy về một mối là quan hệ của họ với người khác. Kết quả của cuộc nghiên cứu “Grant Study” được tóm gọn trong câu: “Happiness is love. Full stop.” (Hạnh phúc là yêu thương. Chỉ đơn giản có thế).
Đây là “kinh tin kính” của tôi: có sống yêu thương, con người mới hạnh phúc! Tôi tin như thế khi nhìn nụ cười và lời chào hỏi mà ông bạn Brett của tôi lúc nào cũng trao tặng cho người khác. Con người chỉ có thể trao tặng điều mình có. Có an bình và hạnh phúc trong tâm hồn, con người mới muốn trao tặng cho người khác. Và như nguồn nước ở đáy giếng, càng được khai mạch, nước càng tuôn ra. Càng được trao ban, niềm hạnh phúc càng tuôn trào.
Tôi cảm nghiệm được điều đó trong cuộc chạy bộ mỗi ngày. Bắt chước ông bạn câu của tôi, gặp bất cứ ai quen biết hay xa lạ, tôi cũng đều nhìn vào mắt họ, gật đầu chào, “say hello” và dĩ nhiên với nụ cười đi kèm. Đa số đều đáp lại lời chào và nụ cười của tôi. Tôi nghĩ rằng người nào được tôi chào hỏi mà vẫn cúi gầm mặt hay nhìn đi chỗ khác, nếu không phải là một người kỳ thị chủng tộc thì cũng không thể là người có được niềm an bình và hạnh phúc trong tâm hồn.
Về phần tôi, tôi nghĩ rằng khi tôi biết ra khỏi bản thân để tìm đến với người khác, dù chỉ bằng một ánh mắt hay một nụ cười thân thiện, đó là lúc tôi cố gắng tìm kiếm niềm an bình và hạnh phúc. Người khác, nhứt là người xa lạ, là tấm gương soi của tâm hồn tôi. Nếu tôi luôn nghĩ rằng người xa lạ cũng giống như tôi và cần được tôi tôn trọng và đối xử tử tế bằng ánh mắt hay nụ cười thân thiện, thì lúc đó sẽ có sự thay đổi tốt đẹp trong bản thân tôi. Tôi sẽ nhận ra rằng hầu hết mọi người cũng đều giống như tôi. Họ cũng có gia đình, những người họ thương yêu, những khó khăn, những trăn trở, những sở thích, những điều họ không ưa thích, những nỗi lo sợ, những kỳ vọng, những ước mơ . v.v… Tôi cũng sẽ nhận thấy rằng họ cũng dễ thương và biết ơn khi tôi tìm đến với họ. Khi tôi nhìn thấy người khác cũng giống như tôi như thế, tôi sẽ bắt đầu nhận ra “thiện tính”, sự ngay lành trong mỗi một con người. Chỉ với cái nhìn lạc quan và cảm thông như thế tôi mới cảm nhận được an bình và hạnh phúc trong tâm hồn.
Nữ hoàng hội thoại của Mỹ Oprah Winfrey đã nói một câu thật chí lý: “Hạnh phúc mà bạn nhận được tỷ lệ thuận với tình yêu thương bạn trao ban”. Thật vậy, ai cũng có một kho tàng hạnh phúc được chôn dấu trong thẩm cung của tâm hồn. Nhưng không phải do ngẫu nhiên mà con người tìm thấy được kho tàng ấy. Cần phải tìm kiếm, đào bới từng ngày bằng những cử chỉ yêu thương chúng ta mới khám phá và tận hưởng được kho tàng ấy. Kho tàng hạnh phúc ấy sẽ không bao giờ được tìm thấy nếu tầm hồn con người lúc nào cũng chỉ được nuôi dưỡng bằng hận thù, đố kỵ hay cay đắng. Hạnh phúc tự nó cũng là một kho tàng luôn mời gọi được chia sẻ. Anne Frank( 1929-1945), cô gái Đức gốc Do Thái, trước khi bị đưa vào trại tập trung Đức Quốc Xã Bergen-Belsen, đã trốn trong một gia đình tại Hòa Lan. Trong thời gian này, mỗi ngày cô đều ghi lại một trang nhựt ký. Năm 1952, cuốn nhựt ký của cô đã được xuất bản.Trong cuốn nhựt ký, Anne Frank đã để lại một câu đáng được những ai đang đi tìm hạnh phúc mang ra nghiền ngẫm: “Bất cứ ai hạnh phúc sẽ làm người khác hạnh phúc”.
Cám ơn Brett, ông bạn câu của tôi. Niềm hạnh phúc đơn giản của anh luôn là nguồn cảm hứng thúc đẩy tôi đi tìm niềm hạnh phúc trong chính bản thân tôi.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét