24.03.17
Koh Pos Die Edth là một làng Việt Nam tiêu biểu tại Cam Bốt.
Nằm dọc theo sông Cửu Long và cách Thủ đô Phnom Penh khoảng
45 phút lái xe về hướng nam, làng Koh Pos Die Edth có trên dưới 40 nóc nhà hai
tầng san sát nhau xung quanh một ngôi thánh đường công giáo. Hai bên làng là những
đồng ruộng xanh ngát chỉ bị ngập lụt mỗi năm một lần vào mùa mưa.
Nói chuyện với ký giả Peter Ford của báo The Diplomat, một
cư dân của làng Koh Pos Die Edth tên là Kim Sophea khẳng định: “Tôi muốn làm
sáng tỏ: chúng tôi không phải là “Kitô Hữu”, mà là người Công giáo”. Người phụ
nữ 33 tuổi, giáo viên tiểu học này muốn có sự phân biệt rõ ràng giữa người Công
giáo và các hệ phái Kitô Giáo khác.
Mặc dù tên Kim Sophea có âm điệu hoàn toàn Cam Bốt, nhưng
người nữ giáo viên này lại có gốc gác Việt Nam. Cha mẹ chị là người Việt Nam và
chị cũng cảm thấy là người Việt Nam như 75.000 người Việt Nam hiện đang sinh sống
rải rác tại xứ chùa tháp này. Theo các số liệu của một cuộc thống kê mới nhất được
thực hiện năm 2013, trong tổng số dân gần 15 triệu người, chỉ có 0.5 phần trăm
người Cam Bốt tự nhận là tín hữu Kitô. Tại các đô thị, tỷ lệ này có thể nhích
lên một chút, nhưng không quá 1.1 phần trăm.
Chị Kim Sophea tâm sự: “Tôi chào đời tại một làng ở Cam Bốt
và hiện mang căn cước Cam Bốt. Điều này giúp cho cuộc sống của tôi dễ dàng hơn.
Tôi cũng nói tiếng Cam Bốt xuôi chảy”. Khác với phần đông người Việt Nam trong
làng Koh Pos Die Edth, người giáo viên này được trả lương cao và chị cũng có thể
đi bầu trong các cuộc bầu cử ở địa phương và cấp quốc gia.
Kim Sophea giải thích: “Tôi cảm thấy mình là người Cam Bốt,
nhưng sống trong cộng đồng này, tôi cũng cảm thấy mình là người Việt Nam”.
Trong làng Koh Pos Die Edth, tất cả mọi khẩu hiệu được viết
trên tường, quyển Kinh Thánh trong nhà thờ và ngay cả những câu viết bậy cũng đều
được viết bằng tiếng Việt Nam. Người nữ giáo viên tiểu học cho biết: “Trước kia
tất cả chúng tôi đều làm nghề đánh cá. Nhưng ngày nay chúng tôi không thể sống
bằng nghề này nữa vì cá hết sạch. Đàn ông làm những nghề vụn vặt như làm chìa
khóa và lao động nặng, trong khi nhiều phụ nữ đi nhặt đồ phế thải. Chúng tôi sống
xung quanh những đồng ruộng của người Cam Bốt, bởi vì chúng tôi không có bất cứ
mảnh đất nào. Chúng tôi có thể thuê ruộng, nhưng không ai biết làm ruộng cả”.
Lịch sử của cộng đồng người Việt tại Cam Bốt đầy những
trang đau thương. Từ năm 1867 đến năm 1953, thực dân Pháp đã đưa nhiều người Việt
Nam sang Cam Bốt để làm công chức hành chính và làm “cai” trong các đồn điền cao
su.
Kể từ năm 1555, các nhà thừa sai công giáo người Bồ Đào
Nha đã thành công trong việc quảng báo Kitô Giáo tại Việt Nam, nhưng hoàn toàn
thất bại tại Cam Bốt, quốc gia có đa số theo Phật Giáo tiểu thừa này. Phải nhờ
có sự yểm trợ của Pháp, Giáo hội Công giáo mới tìm được một chỗ đứng tại Cam Bốt.
Việc hoàn thành nhà thờ chính tòa “Notre Dame” (Nhà thờ Đức Bà) tại Thủ đô Pnom Penh
vào năm 1962 là cao điểm của công cuộc truyền giáo của Pháp tại Cam Bốt.
Rất tiếc, năm 1976, ngôi thành đường này
đã bị những người cộng sản Khmer Đỏ phá hủy.
Năm 1970, tướng Lon Nol đã thực hiện một cuộc đảo chính
nhằm lật đổ Quốc vương Norodom Sihanouk, người luôn có chủ trương thân Trung Cộng
và bài người Việt. Dưới thời ông vua này,
những cuộc tàn sát, trục xuất hàng loạt và điều được gọi là “Cáp duồn”,
tức giết người Việt xảy ra khắp nơi. Nhiều người Việt đành phải hồi hương. Ngày
13 tháng Tư năm 1970, đã có khoảng 800 người đàn ông bị hạ sát và cuối năm đó,
theo ước tính, từ con số 65.000 người một năm trước đó, cộng đồng Công giáo tại
Cam Bốt chỉ còn lại 7.000 người.
Bà Nguyễn Thị Cần, mẹ của chị Kim Sophea tự hỏi: không biết
tại sao cả gia đình bà đều bị chính quyền săn đuổi. Cũng như người con gái của
bà, bà Cần sinh gần Wat Krosar, trên bờ sông Cửu Long. Năm 1982, 4 năm sau khi
quân đội cộng sản Việt Nam tiến vào Cam Bốt để lật đổ Chính phủ Khmer Đỏ, bà Cần
mới có thể trở lại thăm làng cũ.
Vốn đã âm ỉ trong lòng người dân Cam Bốt, sự thù hận đối
với người Việt Nam đã được những người Khmer Đỏ khai thác đến cùng. Mặc dù đã từng
được các “đồng chí” Cộng sản Việt Nam tài trợ và huấn luyện, Khmer Đỏ vẫn căm
thù người Việt. Hai lãnh tụ khét tiếng của chế độ này là Nuon Chea và Khieu
Samphan cùng với hai người khác là Iang Sary và Ieng Thirith đã bị truy tố về tội
ác chống lại nhân loại, diệt chủng và những hành động vi phạm Công ước Geneva
năm 1949. Những người cộng sản Khmer Đỏ do lãnh tụ khét tiếng Pol Pot lãnh đạo
đã chiếm thủ đô Phnom Penh năm 1975. Vương quốc Cam Bốt trở thành Cộng hòa Cam
Bốt. Chế độ mới đã khuôn rập theo chủ nghĩa Mao để thực hiện điều được gọi là
“Bước nhảy vọt vĩ đại”. Tất cả mọi người dân đô thị đều bị lùa về nông thôn để
trở về lối sống của Thế kỷ thứ 11. “Bước nhảy vọt vĩ đại” ở Cam Bốt đã biến đất
nước thành điều thường được gọi là “Những cánh đồng giết người” (killing
fields). Đã có trên dưới 2 triệu người bị sát tế trong những “cánh đồng giết
người” ấy.
Trỏ tay về một xưởng gạch nằm cách làng Koh Pos Die Edth
khoảng một cây số, chị Kim Sophea nói rằng trước đây gia đình chị sống bên cạnh
bờ sông và đàng sau xưởng gạch này. Người chủ của xưởng gạch đã cho gia đình chỉ
ở mà không phải trả tiền thuê. Nhưng cách đây 10 năm xưởng gạch đã đổi chủ và
gia đình chị phải dời đi vì không có đủ điều kiện để thuê.
Năm 2005, một linh mục công giáo người Việt tại Hoa Kỳ đã
mua cho cộng đồng một miếng đất nhỏ. Đây chính là nơi mà năm 2014, cộng đồng
công giáo tại làng Koh Pos Die Edth đã xây cất được ngôi thánh đường. Trên cổng
chào trước ngôi thánh đường, người ta đọc được câu “Nhà thờ Chiên Thiên Chúa Lò
Gạch”. “Lò Gạch” nói lên địa điểm gần nơi xưởng gạch, nơi gia đình chị Kim
Sophea đã từng sinh sống. Mỗi ngày Chúa nhật, vào lúc 8 giờ sáng, khoảng 130
gia đình từ làng Koh Pos Die Edthe và những vùng lân cận tập trung lại trong
ngôi thánh đường này để tham dự thánh lễ. Cũng tại đây, tất cả mọi sinh hoạt đều
diễn ra bằng tiếng Việt.
Theo lời kể của chị Kim Sophea, tuy nghèo, nhưng dân làng
Koh Pos Die Edth là những người rất cần cù và luôn giữ được những quan hệ tốt đẹp
với những người láng giềng Cam Bốt. Tuy nhiên vì không nói được tiếng Cam Bốt,
nhiều người Việt trong cộng đồng phải chịu nhiều thiệt thòi. Những người lớn tuổi
chỉ bập bẹ được vài câu tiếng Cam Bốt. Có người chẳng nói được câu nào. Chính
vì vậy mà họ không thể tìm được việc làm bên ngoài cộng đồng.
Cuộc kiểm tra dân số năm 2013 cho thấy chỉ có khoảng 0.42
phần trăm dân số Cam Bốt sử dụng tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên, đối với
trẻ con người Việt, các bậc phụ huynh và các nhà lãnh đạo của cộng đồng luôn nhấn
mạnh đến nhu cầu phải học tiếng Cam Bốt, nghĩa là tuân thủ chính sách hiện nay
của chính phủ Cam Bốt là trong các trường học chỉ được sử dụng một ngôn ngữ duy
nhất là tiếng Cam Bốt mà thôi. Cũng theo chiều hướng đó, cha mẹ Việt Nam trong
cộng đồng cũng đặt tên cho con cái họ bằng tiếng Cam Bốt.
Mặc dù đã và đang hội nhập tối đa vào quê hương mới như
thế, các trẻ em Việt Nam chào đời tại Cam Bốt vẫn không được cấp giấy khai sinh
của Cam Bốt và do đó phải chờ đến lớp năm tiểu học mới được thu nhận vào các
trường công lập.
Mặc dù bị kỳ thị như thế, nhưng chị Kim Sophea lại nhấn mạnh
rằng quan hệ giữa cộng đồng người Việt tại làng Koh Pos Die Edth và người dân địa
phương vẫn tốt đẹp. Theo người nữ giáo viên này, tình trạng đã thay đổi theo
chiều hướng tốt kể từ 10 năm nay. Không có bất cứ người Việt nào đã bị trục xuất.
Trong khi đó tại vùng người Champa đang sinh sống chỉ cách đó 7 cây số, đã có một
số người bị trục xuất. Mặc dù đã sinh sống ở đây trước cả cộng đồng người Việt,
người Champa vẫn không trưng dẫn được bằng chứng nào về điều đó.
Trong năm 2016, đã có tất cả 3.000 người bị trục xuất ra
khỏi Cam Bốt. Phần lớn là người Việt. Không có thân nhân bà con, không được
chính phủ Cộng sản Việt Nam giúp đỡ, không có tay nghề cao, phần lớn những bị
trục xuất đều tìm đường trở lại Cam Bốt. Đây chính là nơi họ đã sinh ra và lớn
lên. Mặc dù các lãnh đạo của làng Koh Pos Die Edth luôn tạo được những quan hệ
tốt đẹp với chính quyền địa phương, nhiều người dân làng vẫn cảm thấy lo sợ và
luôn đặt trong tư thế phải đối phó với những cuộc bố ráp có thể xảy ra bất cứ
lúc nào.
Giữa người dân bản xứ và người Việt trong làng cũng luôn
có quan hệ tốt. Ở đây, người Cam Bốt luôn cố gắng tránh sử dụng từ “Duồn” (yuon) để chỉ người Việt, vì từ này luôn có hàm ý xấu trong tiếng Cam Bốt.
Đảng đối lập “Quang phục Quốc gia Cam Bốt” (Cambodian National Rescue) do ông
Sam Rainsy làm chủ tịch đã bị chỉ trích vì tiếp tục sử dụng từ này với hàm ý kỳ
thị đối với người Việt Nam.
Biết thân phận “đất khách quê người” của mình, người Việt
tại làng Koh Pos Die Edth luôn cố gắng duy trì quan hệ tốt đẹp với người bản xứ.
Xung quanh làng là những đồng ruộng chuyên trồng bắp cải. Mỗi năm, một mảnh vườn
bắp cải có thể thu hoạch được 2.500 ký lô. Những người canh tác trong những mảnh
đất này phần lớn là người Cam Bốt. Họ rất cảm kích trước sự gắn bó của người Việt.
Lý do thật dễ hiểu: bị liệt kê vào danh sách những di dân lậu, sống không có giấy
tờ hợp pháp, luôn lo sợ trước viễn ảnh có thể bị trục xuất bất cứ lúc nào cho
nên người Việt luôn đoàn kết để đùm bọc và che chở lẫn nhau.
Ông Mao Long, một người Cam Bốt đã sống gần 50 năm gần cộng
đồng người Việt, nói rằng ông rất cảm kích trước sự nâng đỡ nhau của người Việt.
Đây là điều mà ông Long cho là rất lỏng lẻo trong các cộng đồng người Cam Bốt.
Mặc dù không nói được tiếng Việt, ông Long vẫn có thể trao đổi với người Việt.
Ông có nhiều bạn bè là người Việt; ông và họ thường ngồi uống rượu đế với nhau.
Ông Long trồng cà chua, đậu và bắp cải trên mảnh đất gần
bên nhà thờ công giáo của người Việt Nam. Mỗi năm Cam Bốt nhập cảng từ Việt Nam
đến cả 400 tấn rau xanh. Nhưng theo ông Long, hầu hết dân Cam Bốt đều muốn thấy
rau xanh của họ được trồng ngay từ vùng của ông, nơi có đông người Việt đang
sinh sống.
Những người nông dân hiền hòa và cởi mở như ông Long có
thể là điểm tựa duy nhất còn lại cho cộng đồng người Việt tại Cam Bốt.
(Nguồn:http://thediplomat.com/2017/03/cambodia-catholicism-and-cauliflower
)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét