Chu Thập
24.02.17
Ở tuổi già, mỗi sáng khi thức dậy và nhứt là trong giờ chạy
bộ, tôi thường tự hỏi: đâu là điều quan trọng nhứt trong cuộc sống?
Mới đây, trên báo Người Việt số ra ngày 16 tháng Hai vừa
qua, tôi có đọc được một bài viết về nhạc sĩ Trúc Giang, tác giả của những “ca
khúc ấm tình quê hương”. Người nhạc sĩ tài hoa này có lẽ đã trả lời cho câu hỏi
của tôi khi ông nói: “Tôi thấy cuộc đời
cái tồn tại là chữ “Tình”. Dù ở hoàn cảnh nào cũng nhớ chữ “Tình”, đừng quên nó”.
Ông giải thích: “Tôi giờ già yếu, lại
thêm bệnh tật, đâu có ăn uống gì được đâu, nhưng khi được cho, được giúp người
khác rồi thì thấy người mình khỏe lắm, còn hơn ăn đồ bổ nữa. Có lẽ ai cũng vậy
hết, khi già rồi mới thấy quý đời sống, quý ở chỗ tình người, nên khi giúp được
người ta thì tâm mình an vui lắm”.
Tôi cảm thấy phấn khởi và được an ủi khi đọc được những lời
nhắn nhủ của người nhạc sĩ thường tham gia tổ chức các buổi dạ tiệc gây quỹ “Tình Yêu Tình Người” để giúp đỡ người
nghèo ở Việt Nam.

Như đạo diễn Scorsese đã nhìn nhận, (x.The Light Touch, tạp
chí Time 20/2/2017), nội dung của phim “Silence” dựa vào quyển tiểu thuyết giã
sử cùng tên của văn sĩ nổi tiếng Nhựt Shusaku Endo (1923-1996) mà ông đã đọc được
cách đây 28 năm. Với cuốn tiểu thuyết này, ông Endo không chỉ ghi lại một trong những trang sử đau thương
và vinh quang nhứt của cộng đồng tín hữu Kitô tại Nhựt Bản, mà cũng muốn nói
lên chính cuộc hành trình tinh thần của ông. Chào đời và lớn lên tại Mãn Châu
trong thời kỳ Nhựt Bản chiếm đóng Trung Hoa, ông bị người dân bản xứ xem như một
kẻ xâm lăng đáng khinh bỉ. Trở về Nhựt Bản là nơi Giáo hội Công giáo không chiếm
đến quá một phần trăm dân số, một người công giáo như ông lại phải âm thầm gậm
nhấm nỗi đau khổ của một người xa lạ ngay chính trên đất nước của mình. Đệ nhị
Thế chiến bùng nổ, Endo lại càng cảm thấy xa lạ và bị kỳ thị hơn vì niềm tin
tôn giáo của mình. Là một người Nhựt, nhưng lúc nào ông cũng hướng về Tây
Phương như quê hương tinh thần của mình. Sau chiến tranh, ông qua Pháp để
nghiên cứu về một số văn sĩ công giáo nổi tiếng của Pháp như Francois Mauriac
và George Bernanos. Cứ tưởng tại quê hương tinh thần này, ông sẽ được niềm nở
đón tiếp. Nhưng người sinh viên Endo đã bị người Pháp kỳ thị vì chủng tộc của mình. Là
con dân của một đất nước đã từng gây đau thương tang tóc cho cả thế giới, Endo
đã trở thành mục tiêu của kỳ thị chủng tộc đối với chính những người đồng đạo của mình. Chính vì
vậy mà sau 3 năm sống ở Pháp, Endo rơi vào trầm cảm nặng nề. Tệ hơn, cũng chính
tại Pháp mà ông đã rước vào thân một căn
bệnh hiểm nghèo là lao phổi. Bị cắt đi một lá phổi, Endo đã phải trải qua nhiều
tháng buồn bã và tủi nhục trong các bệnh viện. Từ đó, ông kết luận rằng chính
Kitô Giáo đã làm cho ông trở thành một người bệnh hoạn: bị đẩy ra bên lề xã hội
tại quê nhà, bị ruồng rẫy tại quê hương tinh thần, Endo phải trải qua một cuộc
khủng hoảng trầm trọng về niềm tin tôn giáo.
Có lẽ trong chính tâm trạng đó mà Endo đã khám phá ra điều
mà ông cho là “mâu thuẫn” của Kitô Giáo: trong khi Chúa Giêsu đã được các tiên
tri loan báo và chính Ngài cũng đã từng sống như một “Người Tôi Tớ Đau Khổ” thì
chân dung của Ngài, như được thể hiện trong thời Đế quốc La Mã , kế đó qua các
cuộc Thập tự Viễn chinh và nhứt là trong
các ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ ở
Âu Châu...lại là một Vị Vua vinh hiển khải hoàn hơn là một người tôi tớ đau khổ.
Để tìm kiếm gương mặt đích thực của Chúa Giêsu, Endo đã
sang tận Palestine, quê hương của Ngài. Tại đây, ông mới thực sự nhận ra được
dung mạo đích thực của Chúa Giêsu, người
bị từ chối và ruồng rẫy ngay trên quê hương của mình!
Có lẽ dưới ánh sáng của cuộc khám phá đó mà Endo đã viết
cuốn tiểu thuyết “Silence”. Nội dung tác phẩm được đặt vào bối cảnh của đầu thế
kỷ 17. Đây là cao điểm của cuộc bách hại Kitô Giáo tại Nhựt Bản. Nhân vật chính
trong chuyện là một linh mục trẻ Bồ Đào Nha. Ông được cử đến Nhựt Bản để tìm kiếm
một vị linh mục già, người đã từng là giáo sư của ông. Có tin cho biết sau 20
năm truyền giáo tại Nhựt Bản, vị linh mục già này đã “chối đạo” và lẩn tránh ở
một nơi nào đó. Trên đường đi tìm người thày của mình, vị linh mục trẻ đã phải
len lỏi vào các cộng đồng tín hữu bị bách hại đang phải sống chui sống nhủi giữa
chốn rừng sâu. Những nơi nào các tín hữu bị bắt, vị linh mục lại phải đau lòng
chứng kiến những cuộc hành quyết dã man. Cuối cùng chính ông cũng bị bắt giữ và
giam tù. Từ trong tù, hình phạt khủng khiếp nhứt mà vị linh mục trẻ phải trải
qua chính là bị cưỡng bách phải chứng kiến những cảnh hành quyết. Ngoài ra, vị
phán quan và các lý hình còn đặt vị linh mục trước một chọn lựa khủng khiếp
hơn: nếu ông không dùng chân để chà đạp lên bức ảnh có hình Chúa Giêsu, các lý
hình sẽ giết thêm một tín hữu. Cuối cùng, để cứu mạng các tín hữu, vị linh mục
đã chà đạp lên bức ảnh của Chúa Giêsu. Với cử chỉ ấy, ông đã “chối đạo” , nhưng
cứu được các tín hữu. Trong lúc chuẩn bị
làm hành động chối đạo ấy, vi linh mục như nghe được tiếng nói của chính Chúa
Giêsu: “Cứ chà đạp lên Ta”. Cuốn phim đã chấm dứt với cảnh vị linh mục “hồi tục”,
ở lại Nhựt Bản, lập gia đình và chết trong tuổi già. Lúc an táng ông , nhìn kỹ,
người ta thấy có một bức tượng nhỏ của Chúa Giêsu trong tay ông.
Chi tiết ấy như muốn nói với tôi rằng vị linh mục này đã
không thực sự “chối đạo”, mà trái lại đã “sống đạo”, nghĩa là đã sống chính cái
cối lõi của Kitô Giáo là sống cho người khác và sống vì người khác. Phải chăng,
ông đã chẳng muốn nói rằng trong cuộc đời, điều quan trọng nhứt chính là sống
cho người khác hay như nhạc sĩ Trúc Giang đã nói “trong cuộc đời chỉ tồn tại chữ
Tình”.
Năm 1966, khi cuốn tiểu thuyết “Silence” được xuất bản, cộng
đồng công giáo ở Nhựt đã phẫn nộ. Nhiều người xem đây như một hành động “chối đạo”
và xúc phạm đến Thiên Chúa.
Thật ra, trong lịch sử nhân loại, “Danh” Chúa hay danh dự
của Thiên Chúa rất thường bị xúc phạm và bị xúc phạm không phải khi con người dẫm
đạp lên một biểu tượng tôn giáo hoặc ngay cả gọi tên Ngài để phỉ báng, mà chính
là lúc họ nhân danh Ngài để làm điều ác,
nhứt là để chối bỏ, chà đạp và tàn sát người đồng loại. Kinh Thánh Cựu Ước của
người Do Thái không thiếu những trang sử như thế. “Danh” Chúa được nại đến
trong rất nhiều hành động cướp đất, tàn sát đối với các dân tộc khác. Thiên
Chúa mà có lẽ người ta đã “tạo dựng” thường đứng về phía tội ác hơn là bênh vực
và sống cho người khác. Tựu trung, bất cứ một thái độ cực đoan nào nhân danh
Thiên Chúa cũng đều là một hành động xúc phạm đến Thiên Chúa hơn là tôn vinh
Ngài. Khi những người Hồi giáo cực đoan và cuồng tín sát hại người khác, nhứt
là những người vô tội, họ luôn tung hô “Allahu Akbar” (Thiên Chúa vĩ đại). Không
gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng một tội ác như thế!
Ở thời đại nào cũng có những người nhân danh Thiên Chúa để
tàn sát, hãm hại hay loại bỏ người đồng loại của mình. Và dĩ nhiên, cũng không
thiếu những người lên tiếng ca tụng họ như những nhà lãnh đạo được Thiên Chúa
tuyển chọn. Khi vị mục sư nổi tiếng Franklin Graham bắt đầu lên tiếng cầu nguyện
trong lễ tuyên thệ nhậm chức của Tổng thống Donald Trump ngày 20 tháng Giêng vừa
qua, trời đổ mưa. Vị mục sư liền nói rằng đây là một dấu hiệu cho thấy Thiên
Chúa chúc lành cho tân tổng thống. Ngoài ra, trước đó vài giờ, một nhà lãnh đạo
tinh thần khác là mục sư Robert Jeffress cũng nói với tân tổng thống Mỹ rằng “chính
Thiên Chúa là Đấng loại bỏ và chọn các nhà lãnh đạo”
Chính tổng thống Trump cũng tự nhận mình
là người bảo vệ Kitô Giáo tại Hoa Kỳ mà ông cho là đang bệnh hoạn và sa đà. Việc
ông quyết tâm bảo vệ Kitô Giáo lại càng rõ ràng hơn khi ông ký ban hành sắc lệnh
hành chính để cấm người Hồi giáo từ một
số quốc gia Hồi giáo tại Trung Đông và Phi Châu, ngay cả những người Hồi giáo
Syria đang đau khổ vì bàn tay tàn bạo của nhà độc tài Bashar al-Assad, được vào
Hoa Kỳ: ông chỉ đón nhận vào Mỹ các tín hữu Kitô đang bị bách hại tại Trung
Đông mà thôi!
Khi Tổng thống Nga Vladimir Putin đem quân sang yểm trợ
nhà độc tài Bashar al-Assad để tiếp tục tàn sát người dân Syria, cũng có người
cho rằng nhà độc tài này “bảo vệ các tín hữu Ki Tô chống lại sự bành trướng của
tổ chức khủng bố Quốc gia Hồi giáo”.
Tôi không biết ông Putin và Tổng thống Trump có thật sự
là những người bảo vệ Kitô Giáo không. Nhưng bảo vệ Kitô Giáo bằng cách loại trừ và chà đạp phẩm giá của người khác không thể
được xem là một hành động bảo vệ Kitô Giáo, lại càng không phải là một hành động
tôn vinh Thiên Chúa, mà ngược lại.
Thật ra, có lẽ Thiên Chúa chẳng cần được con người tôn
vinh và cũng chẳng quan tâm về chuyện danh dự bị sứt mẻ vì những hành động xúc
phạm của con người. Một người bạn của tôi đã chí lý khi cho rằng “vai vế” của
con người đối với Thiên Chúa còn thua xa “vai vế” của một con kiến đối với con
người. Vậy thì làm sao mà con người có thể xúc phạm Thiên Chúa được. Có chăng
là khi con người xúc phạm nhau khi chối bỏ, chà đạp hay loại trừ người đồng loại
của mình. Trong khi Thiên Chúa là Đấng “ cho mặt trời mọc lên soi sáng người tốt
cũng như kẻ xấu”( x.Mt 5, 45) thì nhân danh Ngài để loại bỏ người đồng loại chỉ vì niềm tin tôn
giáo hay sự khác biệt của họ chỉ có thể coi như một hành động phản Kitô giáo mà
thôi.
Xét cho cùng, quan hệ giữa con người và Thiên Chúa dường
như chỉ được đánh giá dựa trên Tình Người mà thôi. Tôi xem đó như cốt lõi của
Kitô Giáo. Tôi nghĩ rằng “Đạo” nào cũng
chỉ dạy có thế. Và như nhạc sĩ Trúc Giang đã cảm nghiệm, “giúp được người ta thì tâm mình an vui lắm”. Ngoại trừ những kẻ bệnh
hoạn lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc loại trừ và hãm hại người khác, có ai mà chẳng
mong cho cái tâm của mình được an vui.
Ai đó đã nói thật chí lý: “Một chữ tình làm nên thiên hạ,
một chữ hận đảo lộn càn khôn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét