Thứ Sáu, 10 tháng 3, 2017

Lữ thứ



Chu Thập
03.03.17
Port Arthur 02/2017
Khởi hành từ Sydney, sau hai đêm và một ngày lênh đênh trên biển, chiếc tàu du lịch Carnival Legend cặp bến gần Port Arthur. Đây là lần thứ hai tôi tham dự một cuộc hải trình như thế. Mục đích của chuyến đi này là để được tháp tùng một số người thân chưa bao giờ có kinh nghiệm về du lịch bằng đường thủy hơn là để hưởng thụ hay nghỉ ngơi. Nhưng với tôi, cứ đi được một ngày đàng là học được một sàn khôn. Lần này, cuộc hành trình dường như đưa tôi về căn cội bản sắc tỵ nạn của mình.
Port Arthur là một địa danh mà tôi thường liên tưởng đến mỗi khi xảy ra một vụ bắn giết ở bất cứ một nơi nào trên thế giới. Nằm ở cực nam tiểu bang Tasmania, Port Arthur là nơi mà ngày 28-29 tháng Tư năm 1996, một người đàn ông bị bệnh tâm thần đã xách súng bắn loạn xạ vào một đám đông khiến cho 36 người bị chết và 23 người bị thương. Kể từ đó, chính phủ dưới thời Thủ tướng Howard đã ban hành lệnh thu hồi súng ống và kể từ đó đến nay ở Úc Đại Lợi không hề xảy ra bất cứ một vụ bắn giết nào như thế nữa. Đó là một bài học quý giá mà có lẽ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không bao giờ muốn học hỏi.
Tôi đến Port Arthur để tưởng niệm biến cố đau thương ấy. Nhưng Port Arthur không chỉ có thế. Đập vào mắt tôi trước tiên chính là ngôi nhà  3 tầng đổ nát, nơi đã từng là nhà tù giam giữ các tù nhân được đưa từ Anh Quốc sang Úc Đại Lợi trong đợt di dân và định cư đầu tiên của người Anh tại vùng đất mới này. Trên một bản hướng dẫn du lịch, tôi đọc được một lời giải thích theo đó nhà tù ở Port Arthur là nơi mà người Anh muốn mang ra áp dụng triệt để  chế độ nhà tù tại Anh Quốc như được triết gia, nhà luật học và cách mạng xã hội tên là Jeremy Bentham (1748-1749) phát minh. Khi cho xây dựng một nhà tù bên cạnh dòng sông Thames, ông Bentham tuyên bố rằng đây là “một cỗ máy để nghiền nát những tên côn đồ thành những người lương thiện” (A machine to grind rogues honest). Một kỷ luật hà khắc đã được mang ra áp dụng cho các tù nhân bị đày sang Úc Đại Lợi để vừa được thanh luyện và uốn nắn vừa để làm nô lệ trong các công trình khai khẩn và xây dựng ở vùng đất mới. Như ông Bentham đã dự đoán, kỷ luật sắt đã biến một số tù nhân thành những người thợ giỏi trong một số ngành nghề như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn...Chính họ là tổ tiên của rất nhiều người dân Úc gốc Anh hiện nay. Nhưng trong số các tù nhân bị đày sang Úc Đại Lợi, nhiều người, kể cả các thiếu niên chỉ mới 9, 10 tuổi đã ngã gục dưới sự bóc lột và những hình phạt độc ác của các cai tù. Ngay tại Hobart, thủ phủ của Tiểu bang Tasmania, người hướng dẫn viên du lịch còn cho biết rằng sau khi một nữ tù nhân sinh con, người ta liền mang đứa con đi. Hầu hết những thơ nhi bị tách khỏi người mẹ như thế đều chết do thiếu hơi ấm của người mẹ và nhất là không được chăm sóc đầy đủ.
Hình ảnh của những thơ nhi, người mẹ mất con và nhất là các tù nhân bị giam giữ và bắt lao động trong những điều kiện vô nhân đạo nhất cứ lẩn quẩn trong trí tôi mỗi khi tôi nhìn hay bắt chuyện với các nhân viên đang phục vụ trên chiếc tàu du lịch. Một vài công thức chào hỏi học được trong trại tỵ nạn ở Galang, Nam Dương vào đầu thập niên 1980 và trong những năm làm việc tại Phi Luật Tân cũng như trong một chuyến đi Thái Lan đã cho phép tôi  làm quen được một cách dễ dàng với một số nhân viên trên tàu, nhất là những người phục vụ trên bàn ăn và dọn dẹp trong phòng ngủ. Ngoài người Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái Lan, tôi còn nhận diện được một số sắc dân khác như Thái Bình Dương và ngay cả Đông Âu như Ba Lan, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi...
Màu da có khác, ngôn ngữ có khác, nhưng tất cả những nhân viên phục vụ trên chiếc tàu du lịch đều nối kết với nhau bằng một mẫu số chung: tất cả đều vì gia đình và vì một tương lai tốt đẹp hơn! Hầu hết đều có một câu chuyện giống nhau để kể cho du khách: hợp đồng làm việc của họ thường là một năm hay ít nhất 6 tháng; họ chỉ mong kiếm được một số tiền, về quê xây một ngôi nhà hay buôn bán làm ăn. Một người thanh niên Nam Dương mà tôi đoán chỉ mới 25 tuổi khoe ngón tay có đeo nhẫn và cho biết đã có một đứa con 2 tuổi. Tôi không thể tưởng tượng được ở tuổi đó, mặc dù không phải trong thời chiến tranh hay tù đày, người ta có thể xa vợ con trong một thời gian dài như thế.
Tiếp xúc mỗi ngày với các nhân viên phục vụ trên tàu rồi nhìn vào biển cả mênh mông, tôi không thể không nhớ lại cuộc vượt biển của tôi và của hàng triệu người Việt Nam sau năm 1975. Trốn khỏi chế độ cộng sản là để được tự do và nhất là có được một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân cũng như người thân. Đó là mục đích chính mà dù cho ngày nay người ta có định nghĩa như thế nào về tỵ nạn, người Việt tỵ nạn nào cũng tìm kiếm. Một người tỵ nạn như tôi do đó dễ đồng cảm và dễ cảm thấy gần gũi với bất cứ một người di dân nào, dù là di dân để tỵ nạn chính trị hay di dân để có tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn.
Mới đây, tôi đọc được một bản tin về một linh mục công giáo Mỹ gốc Việt đã viết thư gởi cho tổng thống Donald Trump để xin “nhường lại” quốc tịch Mỹ của mình cho một người tỵ nạn Syria. Nhiều người cho đây là chuyện không tưởng. Làm gì có chuyện nhường quốc tịch cho một người khác và có lẽ còn lâu ông Trump mới bỏ giờ ra để đọc hay cứu xét một thỉnh nguyện như thế.
Điều khiến tôi cảm động là vị linh mục này tự nhận mình lúc nào cũng là một người tỵ nạn và cho biết đã đến Mỹ cách đây 42 năm khi còn là một cậu bé chưa hiểu được thế nào là tỵ nạn.
Thái độ của vị linh mục này không thể không làm tôi nghĩ đến một số người trẻ gốc Việt khác rải rác khắp nơi trên thế giới. Mặc dù rời bỏ Việt Nam lúc chỉ mới một hai tuổi, họ vẫn mãi mãi nhìn nhận mình là người tỵ nạn. Như trường hợp Nam Lê, tác giả nổi tiếng của tập truyện ngắn có tựa đề “The Boat” (được dịch sang tiếng Việt là “Con Thuyền”, Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam). Tác phẩm này đã mang về cho Nam Lê giải thưởng danh giá Dylan Thomas. Nam Lê sinh năm 1978. Anh đã cùng với cha mẹ vượt biển và đến Úc Đại Lợi khi anh chưa đầy một tuổi. Nhưng đọc chuyện “Con Thuyền”, người ta thấy văn sĩ với cử nhân Luật này vẫn tự nhận là một người tỵ nạn và muốn là tiếng nói của những người tỵ nạn.
Đây cũng là trường hợp của Anh Đỗ, tác giả, diễn viên, họa sĩ được rất nhiều người Úc mộ mến. Anh Đỗ sinh năm 1977. Anh đã cùng với gia đình vượt biển năm năm 1980, nghĩa là khi anh chỉ mới được 3 tuổi. Trong quyển tự thuật “The Happiest Refugee” (người tỵ nạn hạnh phúc nhất), anh đã kể lại 5 ngày lênh đênh trên biển cả trên một chiếc thuyền con dài 9 thước, rộng 2 thước cũng như phải đối đầu với 2 vụ cướp biển. Tác phẩm đã đoạt được nhiều giải thưởng, trong đó có giải “Australian Book of the Year” (Sách của năm tại Úc) năm 2011. Câu chuyện được kể lại trong “The Boat” của Nam Lê hay “The Happiest Refugee” của Anh Đỗ không phải là chuyện mới lạ đối với một người vượt biển như tôi hay hàng triệu người Việt vượt biển khác. Có chăng là vì hai tác giả này đã nhận mình là người tỵ nạn và đã muốn trở thành tiếng nói của người tỵ nạn để khẳng định rằng, dù có đổi đời, những người Việt đã từng vượt biển đều vẫn mãi mãi là người tỵ nạn. Đây chính là tâm trạng hầu như thường xuyên của tôi.
Có thể đó không phải là tâm trạng chung của rất nhiều người Việt và nhiều người di dân hoặc con cháu của họ. Nhưng dù xa hay gần, đa số người Úc hiện nay chẳng hạn không thể chối bỏ được giây mơ rễ má của họ với người tỵ nạn và di dân. Không là hậu duệ của các tù nhân thì ít ra cũng là con cháu của rất nhiều người tỵ nạn và di dân đến Úc trong nhiều đợt khác nhau trong suốt lịch sử của một quốc gia chỉ mới có hơn 200 tuổi này.
Khi vừa yên vị trên một chuyến xe buýt đi vòng quanh thành phố Hobart và vùng phụ cận, tất cả mọi hành khách đều được người hướng dẫn viên du lịch hỏi: “Có ai là người Mỹ không?” Chỉ có một người đàn ông giơ tay cho biết mình đến từ Mỹ. Ngoại trừ một số người da trắng chính cống, tất cả mọi người, mặc dù rõ ràng là da vàng mũi tẹt hay da mầu, đều hãnh diện nhìn nhận mình là dân Úc. Không thể chối cãi được rằng Úc Đại Lợi ngày nay là một quốc gia đa chủng tộc, đa văn hóa. Đất nước này được xây dựng bởi người di dân. Mỗi lần cảm thấy khó khăn khi đọc tên bà Gladys Berejiklian, đương kim Thủ hiến của Tiểu bang New South Wales hay tên của bà Annastacia Palaszczuk, Thủ hiến Tiểu bang Queensland  hoặc tập làm quen với tên tuổi của một số chính trị gia hàng đầu của Úc khác như Penny Wong, như Anthony Albanese, như Nick Xenophon....tôi đều xác tín rằng Úc Đại Lợi là đất nước của di dân và tỵ nạn.
Xét cho cùng có đất nước nào mà chẳng là đất nước của người di dân. Bài học lịch sử đầu tiên mà tôi còn nhớ được há chẳng phải là có một dòng giống Bách Việt từ bờ sông Dương Tử di dân xuống phía Nam để rồi dần dần xâm chiếm đất đai của người Chàm và Chân Lạp?  Đọc Kinh Thánh của người Do Thái, tôi cũng nhận thấy một hiện tượng tương tự: tổ phụ Abraham của họ đã di dân từ Iraq sang Palestine, con cháu của ông đã di dân sang Ai Cập rồi trở về lại Palestine để rồi cuối cùng tản mác đi khắp nơi. Lịch sử loài người, nhìn chung, cũng là một cuộc di dân triền miên. Khoa học ngày càng trưng các bằng chứng để nói rằng cách đây từ 150 ngàn đến 200 ngàn năm, loài người đã từ lục địa Phi Châu dần dần tản mác và  di chuyển đến các vùng khác nhau.
Nhìn lại lịch sử di dân của nhân loại, tôi thường nghĩ đến hình ảnh “lữ thứ trần gian” được “nhà Đạo” của tôi sử dụng để không những nhắc nhở về “quê hương trên trời” mà còn để kêu gọi sự đồng cảm với người đồng thuyền đồng hội. Thật ra đâu chỉ có “nhà Đạo” của tôi mới dạy điều đó. Những người du mục nay đây mai đó giữa sa mạc luôn tuân giữ một truyền thống tốt đẹp: lúc nào họ cũng tỏ ra hiếu khách đối với khách lạ.  Có chung một hoàn cảnh con người thường dễ dàng cảm thông và chấp nhận nhau. Và dĩ nhiên cuộc sống cũng dễ thở và tốt đẹp hơn khi con người biết lấy sự cảm thông và chia sẻ để đối xử với nhau.
Đó là lý do tại sao càng ý thức về thân phận tỵ nạn và “lữ thứ” của mình, tôi thấy mình dễ cảm thông với người di dân và tỵ nạn hơn.










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét