Thứ Tư, 8 tháng 3, 2017

Hoàng tử nhỏ




Chu Thập
30.07.13


Sáng sớm thứ bảy nào cũng thế, cứ mỗi lần chạy bộ ngang qua cái “ga xếp” gần nhà, tôi đều bắt gặp một cảnh tượng thật dễ thương. Ở một góc sân ga, một thiếu phụ trẻ đang chơi đùa với đứa con trai khoảng 3 tuổi. Thỉnh thoảng thằng bé bỏ mẹ, chạy đi nhìn về hướng chiếc xe lửa sắp tới. Ai cũng biết nó đang nôn nao chờ đợi một điều gì đó. Khi đoàn tàu dừng lại và từ một toa xe một người đàn ông cỡ tuổi của tôi bước xuống, thằng bé chạy ùa tới, ngả vào lòng. Tôi đoán người đàn ông là ông ngoại của đứa bé. Tôi nghĩ những hành khách trên con tàu buổi sáng, dù có ngái ngủ đến đâu, có lẽ cũng phải thức giấc để nhìn cho bằng được cảnh tượng ấy. Cháu mừng. Ông vui. Đôi mắt người mẹ cũng sáng lên vì tình thương chan hòa cả cái sân ga. Tôi nghĩ không riêng tôi, mà có lẽ ai cũng chia sẻ niềm vui ấy.
Sau đó, cả ba người kéo nhau qua phía sân ga đối diện. Một chuyến xe lửa khác dừng lại. Ông cháu lại bước lên tàu. Người mẹ đi về một mình. Tuy chưa một lần nói chuyện với người thiếu phụ, nhưng tôi biết chắc rằng mỗi sáng thứ bảy người cha của chị đều đến đón đứa bé để đưa về nhà hoặc đi chơi cuối tuần với ông, để chị được đi làm thêm vào ngày cuối tuần.
Thứ bảy nào cũng thế, vừa chạy bộ tôi vừa ngẫm nghĩ về những niềm vui mà trẻ thơ có thể mang lại cho người thân và những người xung quanh. Tôi không thể không nhớ lại bài thơ có tựa đề “Lorsque l’enfant parait” (khi trẻ thơ xuất hiện) của văn hào Pháp Victor Hugo (1802-1885). Trong bài thơ có mấy câu thật dễ thương: “Khi trẻ thơ xuất hiện, thì dẫu có buồn bã nhăn nheo đến đâu, những vầng trán cũng bất thần giãn nở để nhìn nó xuất hiện trong sự ngây thơ và hớn hở…Đôi khi chúng ta bàn luận về tổ quốc, về Thượng Đế, về các nhà thơ…nhưng khi trẻ thơ xuất hiện, thì thôi cũng xin tạm quên trời đất, tổ quốc và các nhà thơ!”
Kết thúc bài thơ, văn hào Victor Hugo cầu xin Thượng Đế cho ông, những người thân của ông và ngay cả kẻ thù của ông đừng bao giờ phải nhìn thấy một mùa hè không có hoa, cái lồng không có chim chóc, cái tổ không có ong và ngôi nhà không có trẻ thơ!
Nhà thơ vĩ đại của Pháp này không chỉ yêu mến trẻ thơ nói chung, ông còn dành cho những trẻ em khốn khổ một tình thương đặc biệt như được phản ảnh qua tác phẩm “Les Misérables” (những kẻ khốn khổ). Trong một bài thơ có tựa đề “Les Enfants Pauvres” (những đứa trẻ khốn khổ), ông viết rằng “Thượng Đế đặt sự khôn ngoan của Ngài trong nụ cười của trẻ thơ và lòng tha thứ của Ngài trong nụ hôn của chúng”.
Ôn lại những bài thơ này, tôi không thể không liên tưởng đến ông hoàng tử nhỏ của Vương Quốc Anh vừa mới chào đời cách đây hơn một tuần. Ở thời đại này mà còn được cả thế giới  ngóng trông chờ  đợi từng giờ từng phút ngày chào đời thì chỉ có thể là hoàng tử và công chúa của quốc gia đã từng là đế quốc hùng mạnh nhất thế giới này mà thôi. Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy như thể bị oanh tạc và tra tấn bởi lượng tin tức phải nói là quá tải và không cân bằng về cậu con trời này. Cái cảnh các phó nhòm chờ chực đến cả tuần lễ trước cửa bệnh viện nơi cậu chào đời, cái cảnh thần dân Anh nhảy mừng đến trào nước mắt và cả thế giới cũng phải nhốn nháo lên khi hoàng tử nhỏ được ông hoàng Williams và công nương Catherine bồng trên tay ra mắt trước cửa bệnh viện St Mary’s Hospital…khiến tôi cảm thấy ái ngại khi nghĩ đến vô số những trẻ thơ khốn khổ trên khắp thế giới. Cùng ngày ông hoàng tử nhỏ của vương quốc Anh chào đời, chỉ riêng tại nước này thôi cũng đã có ít nhứt trên 2 ngàn thơ nhi khác được sinh ra trong những điều kiện khác nhau, mà khốn khổ thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần không phải là ít. Cùng ngày ấy, trên khắp thế giới có biết bao nhiêu trẻ thơ ra đời, trong số ấy có biết bao em chỉ nhìn thấy ánh mặt trời xuyên qua khung cửa chật hẹp và oi bức của các trại tỵ nạn, có biết bao nhiêu em không được người cha biết mặt và bị người mẹ ruồng bỏ, có biết bao nhiêu em góp mặt với đời trong tấm thân gầy yếu vì thiếu ăn khi còn trong lòng mẹ hay phải mang trên người những căn bệnh hiểm nghèo do cha mẹ truyền cho…Cũng ngày hôm đó, tôi biết có những em chào đời nhưng không được người mẹ ôm ấp trong vòng tay vì người mẹ phải quay trở lại nhà tù. Khi hoàng tử nhỏ của nước Anh chào đời, có ai dành một phút thôi để nghĩ đến những em bé khốn khổ này không?
Ai đó đã nói rằng con người ta thường chỉ thấy những gì họ muốn thấy. Những người mù đi xem voi đã “thấy” sẵn trong đầu một con đỉa, một cây cột nhà hay một cái quạt…cho nên con voi chỉ được họ “nhìn thấy” xuyên qua những hình tượng có sẵn ấy. Nếu người ta chỉ muốn nhìn thấy sự hào nhoáng, tiếng tăm, danh vọng, quyền lực, sự giàu sang…mắt họ chỉ mở ra để chỉ nhìn thấy những thứ đó mà thôi. Một khóe mắt của họ có thể bị khép lại để không còn nhìn thấy những thứ có thể nhìn thấy và đáng nhìn thấy hơn.
Sau cuộc diệt chủng dã man trong điều thường được gọi là “những cánh đồng giết người” (killing fields) tại Cambốt do đồ tể cộng sản Pol Pol chủ xướng hồi cuối thập niên 1970, một số người sống sót đã được định cư tại Hoa Kỳ. Trong số những người tỵ nạn này, người ta nhận thấy một hiện tượng kỳ lạ nơi rất nhiều người phụ nữ: mắt họ vẫn còn sáng, nghĩa là không hề bị bất cứ một thương tật nào, nhưng họ nói rằng họ không còn thấy hoặc thấy rất lờ mờ. Đây là một chứng bệnh mà nguyên nhân được một số chuyên gia tâm lý gán cho những nỗi kinh hoàng mà những người tỵ nạn này đã trải qua dưới thời cộng sản tại Cambốt. Giáo sư tâm lý học Patricia Kozee-Koker, thuộc Đại học Long Beach, tiểu bang California, giải thích rằng “những phụ nữ này vẫn còn nhìn thấy những cảnh hãi hùng mà tâm trí họ không muốn chấp nhận. Có đến 70 phần trăm những phụ nữ này có người thân gần gũi nhứt bị sát hại ngay trước mắt họ. Cho nên mắt họ vẫn mở, nhưng tâm trí họ lại khép kín và họ không muốn nhìn thấy nữa, bởi vì họ sợ thấy cái chết, những cảnh tra tấn, hãm hiếp và chết đói”.
Sự khiếm thị mà những phụ nữ Cam bốt này trải qua quả là chuyện hạn hữu. Nhưng có mắt mà không nhìn thấy, có tai mà không nghe cũng là hiện tượng vốn thường xảy ra cho con người. Nhất là khi đôi mắt và tâm trí của họ bị che khuất bởi đam mê, quyền lực, danh vọng, sự thù hận, tính ích kỷ hay ngay cả những thành kiến.
Hoàng tử nhỏ của nước Anh lại làm tôi nhớ lại chuyện “Hoàng tử nhỏ” (Le Petit Prince) của văn hào Pháp Antoine de St Exupéry (1900-1944). Khi bàn về cái tánh có thành kiến của con người, nhà văn này đã tưởng tượng ra một hành tinh được đặt tên là B-612, quê hương của hoàng tử nhỏ. Theo Antoine de St Exupéry, hành tinh này đã được một nhà thiên văn học Thổ Nhĩ Kỳ khám phá năm 1909. Sau khi khám phá hành tinh này, nhà thiên văn học đã đến giới thiệu tại Hội Nghị Quốc Tế Thiên Văn Học. Nhưng bởi vì ông ăn mặc như một người Thổ Nhĩ Kỳ cho nên chẳng ai tin những gì ông nói.
Tác giả của “hoàng tử nhỏ” đưa ra nhận xét: “người lớn là như thế đó…”
“Người lớn là như thế đó…” là một kết luận rất thường được nhân vật “hoàng tử nhỏ” đưa ra mỗi khi người lớn không chịu hiểu cái thế giới của trẻ con. Trong câu chuyện “trao đổi” với viên phi công gặp nạn giữa sa mạc hoang vắng bên Phi Châu, hoàng tử nhỏ thường nói: “Ông nói chuyện như người lớn! Ông pha trộn mọi sự với nhau…Ông lẫn lộn mọi sự.”
Trước khi đến Trái Đất, hoàng tử nhỏ đã phiêu lưu qua rất nhiều hành tinh khác. Hành tinh đầu tiên mà cậu đặt chân đến là vương quốc không có lấy một ai ngoại trừ một ông vua đơn độc cai trị. Vậy mà khi thấy cậu xuất hiện, ông vua này liền thốt lên: “Đây là một thần dân của ta”. Ông vua đơn thương độc mã này định bổ nhiệm cậu làm đại sứ. Nhưng cậu bỏ đi và nghĩ thầm: “Những người lớn thật lạ lùng!”
Hành tinh thứ hai được hoàng tử nhỏ viếng thăm lại cũng chỉ có một người và người này là một kẻ tự phụ. Sau khi trao đổi với người này, cậu bé cũng đưa ra kết luận: “Người lớn thật kỳ quặc”. Đến hành tinh thứ ba, cậu cũng chỉ gặp có đúng một người và là một tên nát rượu. Nhận xét của hoàng tử nhỏ cũng vẫn là: “Người lớn chắc chắn rất kỳ quặc”. Sang đến hành tinh thứ tư, cậu lại gặp một doanh gia. Ông này chỉ biết những con số và quy tất cả mọi sự thành số. Cậu bé lại thốt lên: “Người lớn quả là khác thường”…Mà đâu chỉ có doanh gia này mới nhìn mọi sự bằng những con số. Văn hào St Exupéry viết rằng “người lớn thích những con số. Khi bạn nói với họ rằng bạn vừa mới có một người bạn mới, họ sẽ không bao giở hỏi bạn bất cứ câu hỏi nào về những vấn đề quan trọng. Họ không bao giờ nói với bạn: “Giọng nói của người đó như thế nào? Người đó có sưu tầm bướm không?” Thay vào đó, họ lại hỏi: “Người đó bao nhiêu tuổi? Người đó có bao nhiêu anh em? Người đó cân nặng bao nhiêu? Cha người đó làm được bao nhiêu tiền?”…Nếu bạn nói với người lớn: “Tôi thấy có một ngôi nhà đẹp làm bằng gạch hồng, với hoa “phong lữ” (geranium) bên cửa sổ và chim bồ câu trên mái nhà”, họ sẽ không thể hiểu được ngôi nhà đó như thế nào cả. Bạn phải nói với họ: “Tôi thấy có một ngôi nhà giá 4000 bảng Anh”. Lúc đó họ sẽ thốt lên: “Ồ, ngôi nhà đẹp biết chừng nào!”.
Triết lý mà văn hào St Exupéry muốn đưa ra trong tác phẩm “Hoàng tử nhỏ” có lẽ đã được ông tóm gọn trong câu nói của con chồn khi từ giã cậu bé: “Và đây là bí quyết của tôi, một bí quyết rất đơn giản: chỉ với trái tim con người mới nhìn thấy đúng đắn; mắt thường không thể nhìn thấy điều thiết yếu”.
Tôi vẫn thường đọc lại và nghiền ngẫm về sứ điệp của “Hoàng tử nhỏ”. Chỉ với trái tim ngây thơ, không thành kiến, không vướng bận với những đam mê, quyền lực, tiền của, danh vọng, tiếng tăm…tôi mới có hy vọng được nhìn thấy những điều mà đôi mắt thường của tôi không nhìn thấy. Mà quả như St Exupéry đã nói qua miệng của “hoàng tử nhỏ”, điều quan trọng là điều không nhìn thấy được. “Các ngôi sao đẹp là bởi vì có một cánh hoa trên đó không thể nhìn thấy được…Sa mạc đẹp bởi vì đâu đó có ẩn dấu một giếng nước”.
Bước vào bóng xế của cuộc đời, tôi thường nhớ lại chuyện tuổi thơ. Tuổi thơ của tôi vất vả, thiếu thốn, nhưng đẹp.Tuổi thơ nào mà chẳng là tuổi thần tiên. Sau một thời gian lưu lạc, dường như “ông hoàng tử nhỏ” của tuổi thơ đã trở về với tôi để không ngừng nhắc nhở tôi nhìn thấy đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. “Ông hoàng tử nhỏ” mở con mắt trái tim của tôi để tôi nhìn thấy bao nhiêu vẻ đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc sống và trong tâm hồn của mỗi một người. Nhưng quan trọng hơn cả, “ông hoàng tử nhỏ” cũng luôn sát cánh bên tôi để tra hỏi tôi về bao nhiêu nỗi khốn khổ mà bao nhiêu người trên khắp thế giới, bên cạnh tôi, xung quanh tôi đang trải qua. Xét cho cùng, quan trọng hơn cả trong những điều mà “ông hoàng nhỏ” trong tôi không ngừng mách bảo tôi chính là ánh mắt cảm thông mà tôi phải luôn có khi đứng trước những thiếu sót và nhứt là nỗi khổ đau của người đồng loại.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét