Chu Thập
16.04.13
![]() |
M. Thatcher 1925-2013 |
Trong những ngày vừa
qua, tôi cảm thấy như chính mình bị xúc phạm mỗi khi nghĩ đến những phản ứng của
một số người Anh trước sự ra đi của cựu thủ tướng Margaret Thatcher. Người reo
hò, kẻ mở rượu champagne để ăn mừng. Không thiếu những người chửi bới, nguyền rủa.
Bài ca “Ding-Dong! The Witch is dead” (Ding-Dong, mụ phù thủy đã chết) lại được
dịp cho phát đi phát lại, ngay cả trên đài BBC. Có người còn tuyên bố sẽ nhảy
nhót trên mộ của bà.
Dù có bị nguyền rủa
đến đâu, trong sự yên giấc nghìn thu, có lẽ bà Thatcher chẳng còn màng đến lời
khen tiếng chê. Nhưng quan tài của bà còn đó. Con cháu và người thân của bà còn
đó. Họ đau khổ biết chừng nào! Trước sự ra đi của bất kỳ con người nào, người
Việt Nam chúng ta vẫn luôn bày tỏ sự tôn trọng qua câu nói “nghĩa tử nghĩa tận”.
Người Tây Phương cũng có một cách cư xử tương tự. Ngay từ thế kỷ thứ Tư trước
Công Nguyên, ngạn ngữ Latinh mà người Tây Phương vốn thấm nhuần cũng nói rằng “Về
người chết, nếu có nói điều gì thì chỉ nên nói tốt mà thôi” (De mortuis nil
nisi bene dicendum). Nhiều người Anh có lẽ đã quên mất câu nói tương tự trong
Anh Ngữ: “Speak no ill of the dead”.
Sở dĩ tôi cảm thấy
buồn về cách cư xử “thiếu văn minh” của một số người Anh là vì, cho dẫu không tôn
bà Thatcher lên hàng “thần tượng”, tôi vẫn thấy nơi bà có nhiều điều đáng tôn
trọng và học hỏi. Hẳn phải là một chính trị gia có thực tài, bà mới được dân
chúng Anh tín nhiệm để bầu làm thủ tướng đến 3 nhiệm kỳ liên tiếp. Người ta có
thể không đồng ý về đường lối cai trị và các chính sách của bà. Người ta cũng
có thể không đồng ý trước sự cứng rắn của bà. Nhưng không ai dám bảo bà là một
nhà độc tài. Chính bà đã can đảm đối đầu với nhà độc tài Galtieri của Á Căn
Đình khi ông này ngang nhiên đưa quân xâm chiếm đảo Falkland của Anh Quốc.
Chính bà là người đã tích cực hợp tác với Hoa Kỳ dưới thời cố tổng thống Ronald
Reagan để giựt sập bức tường Berlin, giải thế các chế độ cộng sản tại Đông Âu
và Liên Xô và chấm dứt chiến tranh lạnh.
Bà xứng đáng để được
mệnh danh là “Bà Đầm Sắt”. Như cựu ngoại trưởng Úc Alexander Downer đã giải
thích về thái độ cứng rắn của bà, “cứng rắn không phải là một đức tính nếu bạn
sai lầm và bất tài. Cứng rắn như thế là ích kỷ và cứng đầu” (x.The Sydney
Morning Herald 13-14/4/2013). Theo ông Downer, cứng rắn nơi bà Thatcher là một
đức tính, bởi vì bà đưa ra những chính sách đúng đắn. Đa số người Anh đã biểu đồng
tình với các chính sách của bà cho nên mới tín nhiệm bà và để bà lãnh đạo đất
nước trong ba nhiệm kỳ liên tiếp.
Cứng rắn nơi bà
Thatcher cũng đồng nghĩa với can đảm. Bà không bao giờ đưa lá bài “phái tính” của
bà ra mỗi khi bị tấn công. Bà chưa một lần gọi các đối thủ của mình là những
người kỳ thị và khinh miệt phụ nữ. Bà chỉ nói rằng họ sai lầm. Vậy thôi.
Với tôi, sau thủ
tướng Winston Churchill, bà Thatcher là một trong những thủ tướng vĩ đại nhứt trong
lịch sử Anh Quốc. Vĩ đại là bởi lúc còn sống bà chấp nhận bị chống đối miễn là
hành động theo sự thật, lẽ phải và lương tri, chứ không mị dân để tìm kiếm sự ủng
hộ nhất thời.
Tôi thích nhận định
của ký giả Catherine Mayer trên tạp chí Time số ra 22 tháng 4 này: Bà Thatcher
“am hiểu điều mà người dân thường chờ đợi nơi các lãnh tụ chính trị: đó là họ
phải ý thức rằng sống cuộc sống tử tế là điều đáng sống”.
Di sản mà cố thủ
tướng Thatcher để lại sẽ được người dân Anh và thế giới tiếp tục mang ra mổ xẻ,
tranh luận và ngay cả bôi bác. Nhưng riêng tôi, nếu có một bài học mà tôi cần
rút ra từ triết lý sống, cách hành xử của người đàn bà này, thì bài học đó là:
trong cuộc sống, chẳng ai có thể làm vừa lòng mọi người. Thánh thiện như Chúa
Giêsu hay Đức Thích Ca vẫn có người thù ghét. Từ bi nhân ái như Đức Đạt Lai Lạt
Ma cũng không thiếu người không ưa thích. Có suốt một đời hy sinh phục vụ cho
những người nghèo cùng khốn khổ nhứt như Mẹ Terexa Calcutta mà cũng không tránh
khỏi những lời chỉ trích. Có khi càng sống theo lương tâm thì lại càng bị chê
ghét và bỏ rơi. Bá nhân bá tính. Làm sao có thể làm vừa lòng mọi người một lúc.
Có ai trên trần gian này mà chẳng có kẻ thù. Người Việt Nam nào mà chẳng thuộc lòng câu ca
dao:
“Ở sao cho vừa lòng người,
Ở
rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao
chê ngỏng thấp chê lùn,
Béo
chê béo trục béo tròn,
Gầy
chê xương sống xương sườn phơi ra”.
Chợt nhớ lại điển
tích về cha con người buôn ngựa:
“Nhà họ Mã ngày trước chuyên nghề nuôi dạy ngựa và
bán ngựa. Có một dạo gia đình ông suy sụp vì con ông bị bệnh nặng, đã vét hết
tiền trong nhà mà con ông vẫn không khỏi. Ông bán hết số ngựa nuôi để thang thuốc
cho con. Con ông sống được. Từ đó ông bắt đầu dành dụm, tằn tiện được một số tiền.
Ngày nọ Mã ông nghe ở Hương Lâm có bán một giống ngựa quý, ông đến nơi đó xem tướng ngựa thật kỹ, biết đó là giống ngựa hay, thuộc loại Hoàng Phiêu, mặc dù nó có phần hơi gầy. Mã ông thích quá, nên chịu mua với giá đắt. Ông về nhà bàn lại với con:
Ngày nọ Mã ông nghe ở Hương Lâm có bán một giống ngựa quý, ông đến nơi đó xem tướng ngựa thật kỹ, biết đó là giống ngựa hay, thuộc loại Hoàng Phiêu, mặc dù nó có phần hơi gầy. Mã ông thích quá, nên chịu mua với giá đắt. Ông về nhà bàn lại với con:
-Phụ thân xem biết nó rất quý, dù hơi gầy,
thuộc giống Hoàng Tuyết Phiêu của người Khương. Nhà ta gây được giống này sẽ
làm giàu không mấy hồi. Ngặt vì xa ngót ngày đường, qua đèo truông e có cướp, nên
cha con ta cùng đi.
Hai cha con họ Mã thử ngựa và ngả giá xong, tra yên cương, cha con đồng lên ngựa ra về, lòng thấy hoan hỉ.
Họ đi qua một xóm nhà, Mã ông khiêm tốn cho ngựa đi nước kiệu, dân làng đón ông lại nói:
Hai cha con họ Mã thử ngựa và ngả giá xong, tra yên cương, cha con đồng lên ngựa ra về, lòng thấy hoan hỉ.
Họ đi qua một xóm nhà, Mã ông khiêm tốn cho ngựa đi nước kiệu, dân làng đón ông lại nói:
- Mã lão! Ông là người nuôi ngựa, sao không
biết thương ngựa? Con ngựa gầy thế kia, còn cha con ông cọp ăn bảy ngày không hết,
nỡ nào cả hai lại đè trên mình nó?
Ông Mã nói với con mình:
Ông Mã nói với con mình:
- Họ nói phải đấy con ạ! Vậy cha nhường cho
con cưỡi. Cha cầm cương cho.
Thế là một mình Mã công tử ngồi ngựa, ông Mã đi bộ
theo. Họ yên tâm đi xóm nhà khác, bây giờ trời đã khá trưa, những người ngồi
mát trên đường thấy cảnh cha con họ Mã như vậy, họ kéo ra đón đầu ngựa, xỉ vả
người con:
- Ai dạy công tử về cách hiếu đạo như thế?
Con thì ngồi ngựa kênh kiệu, để cha chạy bộ theo đổ mồ hôi! Qua cánh đồng kia
có học hiệu Khổng Môn, chắc họ đánh công tử trào máu ra mất!
Mã công tử lật đật nhảy xuống ngựa, chắp tay thưa với cha:
- Họ nói phải đấy cha ạ! Nãy giờ con cũng khỏe rồi, cha hãy cưỡi nó cho đỡ mệt. Người cha lên ngựa đi, ngang qua "Khổng Môn học hiệu", một số học trò ở đó biết mặt ông già, chúng chạy lại đón ông nói:
Mã công tử lật đật nhảy xuống ngựa, chắp tay thưa với cha:
- Họ nói phải đấy cha ạ! Nãy giờ con cũng khỏe rồi, cha hãy cưỡi nó cho đỡ mệt. Người cha lên ngựa đi, ngang qua "Khổng Môn học hiệu", một số học trò ở đó biết mặt ông già, chúng chạy lại đón ông nói:
- Mã lão bá! Lão bá lâu nay mạnh giỏi chứ? Nghe nói
lệnh lang lâu nay bệnh thập tử nhất sinh, nay mới vừa hơi bình phục lão bá để lệnh
lang nhọc nhoài cho đành.
Mã lão nhảy xuống ngựa nhìn con rồi thì thầm:
- Kể ra họ nói cũng phải. Kể không còn bao xa, ta dắt ngựa đi vậy.
Hai cha con xuống ngựa dắt bộ, hồi lâu đến xóm khác, có ai đó nhìn ngựa rồi chửi:
Mã lão nhảy xuống ngựa nhìn con rồi thì thầm:
- Kể ra họ nói cũng phải. Kể không còn bao xa, ta dắt ngựa đi vậy.
Hai cha con xuống ngựa dắt bộ, hồi lâu đến xóm khác, có ai đó nhìn ngựa rồi chửi:
- Đúng là cha con một lão vô học. Đây là giống
Hoàng Tuyết Phiêu, một loại thiên lý mã, mua về để cưỡi hoặc làm giống, nào phải
mua về để thờ, sao có ngựa lại không cưỡi?
Cha con họ Mã thiếu điều muốn khóc. Lão nói với con:
- Cưỡi ngựa cũng bị chửi, mà không cưỡi cũng bị chửi! Ta chịu hết nổi! Thôi thả quách cho xong!
Cha con họ Mã thiếu điều muốn khóc. Lão nói với con:
- Cưỡi ngựa cũng bị chửi, mà không cưỡi cũng bị chửi! Ta chịu hết nổi! Thôi thả quách cho xong!
Hai người dắt đi một đoạn cho khuất mắt mọi
người, rồi tháo cương, cởi yên, đánh một roi, ngựa dong tuốt vào rừng mất dạng.
Về đến nhà, bà cụ nghe đón đầu ngõ. Ông cụ thuật lại mọi chuyện. Bà cụ nghe qua
đấm vào đầu bình bịch, vừa khóc vừa nói:
- Ngu sao là ngu! Có bao nhiêu vét đi mua ngựa, rồi
thả ngựa đi! Xưa nay miệng lưỡi thế gian. Việc mình mình cứ làm, chiều ý, nghe
lời họ làm gì? Rồi đây lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà cưới vợ cho con? Ngu ơi
là ngu!...”
(Theo Ngô Nguyên Phi, Thuật Xử thế của Người Xưa)
Dư luận thường hà khắc và ngay cả độc ác. Các chính trị gia đều biết rõ
điều đó. Hầu như tuần nào kết quả các cuộc thăm dò về phản ứng của dân chúng đối
với chính phủ và các đảng phải chính trị cũng đều được công bố. Trong một mức độ
nào đó, đây là thước đo lòng dân. Các chính trị gia không thể nhắm mắt bịt tai
trước sự phán xét của dư luận. Nhưng cũng có khi dư luận chỉ là một phản ứng “bầy
đàn”: con người bị lèo lái và chạy theo đám đông hơn là suy nghĩ bằng chính cái
đầu của mình. Nếu muốn thấy điển hình của một phản ứng bầy đàn và có điều kiện,
có lẽ chúng ta chỉ cần nhìn vào tiếng khóc hay tiếng hoan hô ngợp trời của một
đám đông ở Bắc Hàn. Trong trường hợp này, đạp trên dư luận mà bước tới quả là một
thái độ can đảm. Chó sủa mặc chó, đường ta ta cứ đi!
Thực ra, lời khen và tiếng chê sẽ không có giá trị nếu như thiếu sự
chính xác. Mà mức độ chính xác thì chỉ có thâm tâm của người nhận mới phán đoán
được. Vì vậy, khen chưa hẳn tốt mà chê chưa hẳn xấu. Sự phê bình của người khác
không phải để tôi kiêu ngạo hay dằn vặt chính mình mà để giúp tôi nhìn lại
chính mình. Bởi lẽ, phê bình đúng giúp tôi kiện toàn những gì đang có trong khi
phê bình sai giúp tôi trưởng thành hơn. Và trong một cách nhìn lạc quan với
chút khôi hài thì khi còn là đối tượng để bị phê bình, thì có nghĩa là người
khác còn “nhớ” đến mình, và mình vẫn còn có một chỗ “đứng” trên trái đất này.
Nói cho cùng, khi con người luôn sống cho sự thật, lẽ phải và lương tri,
họ chẳng phải sợ người đời xa lánh, khinh chê hay thù ghét. Ở cốt lõi của lối sống
ấy chính là tấm lòng từ bi và bác ái. Chỉ có lối sống ấy mới giúp cho ta được
bình tâm trước tiếng đời thị phi hay khen chê của người khác.
Tôi thường đọc lại và suy ngẫm về lời kêu gọi của Đức Đạt Lai Lạt Ma
trong chương cuối cùng của cuốn sách “Đạo lý cho Thiên Niên Kỷ Mới” (Ethics for
the New Millennium). Nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng nhắn nhủ: “Cách tốt nhất để bảo đảm rằng khi cận kề cái
chết chúng ta sẽ không hối tiếc là hãy làm sao để trong phút giây hiện tại ta
hành xử với trách nhiệm và với tâm từ bi đối với tha nhân…Từ bi là một trong những
điều thiết yếu mang lại ý nghĩa cho cuộc đời. Đó là suối nguồn của mọi thứ hạnh
phúc và niềm vui lâu bền. Đó là nền tảng của tâm thiện lành, tâm của một người
hành xử từ ước vọng được giúp đỡ tha nhân. Qua lòng hảo tâm, qua sự thân ái,
qua tánh liêm khiết, qua chân lý và công lý dành cho tất cả mọi người khác,
chúng ta tạo được phúc lợi cho bản thân. Đây không phải là chuyện lý thuyết xa
vời. Hạnh phúc của chúng ta ràng buộc vào hạnh phúc của tha nhân. Xã hội đau khổ,
chúng ta đau khổ. Khi tâm và trí ta càng bị phiền nhiễu bởi tà ý, thì ta càng
khốn khổ”.
Tôi rất tâm đắc với lời khẳng định của nhà lãnh đạo tinh thần này: “Do đó, chúng ta có thể ném bỏ mọi thứ
khác: tôn giáo, lý tưởng, tất cả mọi thứ mà trí tuệ có thể lãnh hội được. Nhưng
chúng ta không thể tránh khỏi sự cần thiết của tình thương và tâm từ bi. Đây
chính là tôn giáo thật sự của tôi. Đây là đức tin đơn thuần của tôi”.
Xét cho cùng đây cũng chính là Đạo của tình thương vô vị lợi, Đạo của vô
chấp. Nếu tôi luôn sống vô vị lợi và vô chấp, không những tôi sẽ biết cảm thông
trước những yếu đuối bất toàn của người khác, mà tôi cũng sẽ “bình chân như vại”
trước những lời khen hay tiếng chê của người đời. Bởi chính khi có thể “vô cảm”
trước những tiếng chê và nhứt là lời khen, thì tôi mới có thể sống cho đến cùng
trong tâm tình từ bi nhân ái. Tâm của tôi sẽ an bình biết chừng nào nếu tôi đạt
được sự “vô cảm” đích thực ấy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét