Chu Thập
11.11.16
Người Mỹ vừa trải qua một cuộc bầu cử mà kinh tế gia Nguyễn
Xuân Nghĩa gọi là “từ lạ kỳ đến kỳ cục, kỳ
quái” (x. Nguyễn Xuân Nghĩa, Vuốt Dao Cạo, Người Việt 31/10/2016).
Kỳ quái đến độ có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử
Hoa Kỳ, người Mỹ đang mắc phải một hội chứng tâm lý mà các chuyên gia gọi là “căng
thẳng rối loạn do bầu cử” (Election Stress Disorder). Tiến sĩ Steven Stosny,
thuộc Hiệp hội Chuyên gia Tâm lý Mỹ APA đã mô tả hội chứng này như sau: “Nó giống như
cảm giác bực tức, thù hận...và bất lực khiến cho con người dễ dàng bị lôi kéo để
chỉ trích và đơn giản hóa các vấn đề”. Tiến sĩ Lynn Bukka, một chuyên gia khác
của Hiệp hội APA còn cho rằng hội chứng này càng trầm trọng hơn khi các phương
tiện truyền thông tràn ngập đủ loại câu chuyện, lý luận, băng hình và tin tức
khác nhau. Xung đột do bầu cử tạo ra không chỉ xảy ra ngoài xã hội, giữa bạn bè
hay người không quen biết mà còn len lỏi vào trong các gia đình. Giữa những phần
tử trong cùng một gia đình đã xảy ra nhiều trận cãi vã dữ dội vì những bất đồng
quan điểm và lập trường (x. Hội chứng tâm lý về bầu cử năm nay của dân chúng
Hoa Kỳ, Calitoday 3/11/2016).
Có lẽ cũng trong lịch sử Hoa Kỳ chưa bao giờ có một cuộc
bầu cử “kỳ quái” như lần này khi người Mỹ bị buộc phải chọn lựa giữa hai ứng cử
viên không những không được ưa thích mà còn đáng ghét là khác. Nhiều người bị đặt
trước tình thế “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Bầu cử mà như thể bị dồn vào chân
tường để chỉ còn biết hành động theo nguyên tắc
đạo đức: “Giữa hai điều xấu không thể tránh được, nên chọn điều ít xấu
hơn”. Hội chứng “căng thẳng rối loạn do bầu cử” có lẽ đã được xoa dịu. Nhưng
nay người Mỹ lại còn phải đối đầu với hội chứng “hậu bầu cử” khi họ phải sống với
bi kịch của một sự chọn lựa không có lối thoát.
Chuyện người Mỹ phải hành động theo nguyên tắc “giữa hai
điều xấu không thế tránh được, nên chọn điều ít xấu hơn” làm tôi nhớ đến cuốn phim có tựa đề “Sophie’s Choice”
(sự chọn lựa của Sophie). Cuốn phim được thực hiện năm 1982 và mang lại giải
Oscar cho nữ diễn viên Meryl Streep kể lại câu chuyện đầy nước mắt của một phụ
nữ Mỹ gốc Ba Lan tên là Sophie Zawistowski. Thời Đệ Nhị Thế chiến, Sophie còn ở
Ba Lan. Bà đã có chồng và hai đứa con. Chồng bà và cha bà đã bị Đức quốc xã đưa
vào Trại tập trung Auschwitz và chết tại đó. Chính bà cũng bị bắt đưa vào trại
tập trung này. Tại đây, bà bị buộc phải làm một chọn lựa khủng khiếp. Các cai
tù Đức quốc xã yêu cầu bà phải làm một chọn lựa: trong hai đứa con của bà, bà sẽ chọn đứa con
nào để đưa vào lò hơi ngạt và đứa nào bị đưa vào trại lao động khổ sai. Để
tránh cho hai đứa con khỏi bị giết một lúc, bà đành chọn cho đứa con trai được
đưa vào trại lao động khổ sai và để cho đứa con gái bị đưa vào lò hơi ngạt.
Có lẽ sự chọn lựa nghiệt ngã và đau thương ấy đã đeo đuổi
bà suốt đời chăng, cuối cuốn phim Sophie đã cùng với người chồng sau của bà
dùng thuốc độc Cyanide để kết liễu cuộc sống.
Dĩ nhiên, trong cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng bị dồn vào chân tường để phải làm những chọn lựa
nghiệt ngã như nhân vật Sophie trong cuốn phim trên đây. Nhưng cuộc sống thiết
yếu được dệt bằng một chuỗi những chọn lựa và hầu hết những chọn lựa đều diễn
ra giữa hai cực thiện ác và chân giả.
Có lẽ đây là chủ đề
nổi bật của cuốn phim khoa học giả tưởng nổi tiếng có tựa đề “The Matrix” được
thực hiện hồi năm 1999 với sự góp mặt của tài tử gạo cội Keanu Reeves. Trong cuốn
phim, nhân vật Morpheus đặt Neo (do Keanu Reeves thủ diễn) trước sự chọn lựa giữa
hai viên thuốc: một viên thuốc đỏ và một viên thuốc xanh. Morpheus nói với Neo:
“Hãy uống viên thuốc xanh và câu chuyện sẽ chấm dứt tại đây. Bạn sẽ thức dậy
trên giường của bạn và tin tưởng bất cứ điều gì bạn muốn tin tưởng”, nghĩa là sẽ
chẳng có gì thay đổi trong cuộc sống của bạn. Trái lại, Morpheus đề nghị: “Hãy
uống viên thuộc đỏ. Bạn sẽ được ở lại trong Vùng Đất Kỳ Diệu (Wonderland) và
tôi sẽ chỉ cho bạn thấy cái hang thỏ sâu cỡ nào. Tất cả những gì tôi cống hiến
cho bạn là Sự Thật. Ngoài ra không có gì khác”. Tóm lại, Neo được đặt trước một
sự chọn lựa: hoặc là cuộc sống bình thường với những hạnh phúc nhỏ đang có trước
mắt hoặc là biết Sự Thật. Và Neo đã chọn lấy viên thuốc đỏ. Anh khao khát muốn
biết Sự Thật.
Theo Tiến sĩ Raj Raghunathan, một chuyên gia tâm lý có mở
một môn học lấy tên là “Sáng tạo và Lãnh đạo” (Creativity and Leadership), phần
lớn trong chúng ta đều không hành động như nhân vật Neo trong cuốn phim “The
Matrix”. Tiến sĩ Raghunathan cho biết khi ông đặt các sinh viên của ông trước một
chọn lựa: hoặc là Hạnh Phúc hoặc là Sự Thật, có đến 58 phần trăm chọn lựa “Hạnh
Phúc” và chỉ có 42 phần trăm chọn đi tìm “Sự Thật”.
Nhưng theo Tiến sĩ Raghunathan, tâm trạng của con người ảnh
hưởng đến sự chọn lựa của họ. Trong một cuộc thử nghiệm, ông chia các tham dự
viên ra hai nhóm: một nhóm được cho uống cà phê và như vậy cảm thấy hưng phấn,
một nhóm không được uống cà phê và như vậy thiếu hưng phấn. Kết quả cuộc thử
nghiệm của Tiến sĩ Raghunathan cho thấy: nhóm hưng phấn cảm thấy thích thú trong
việc đi tìm kiếm “Sự Thật” trong khi nhóm kia chỉ muốn “chữa cháy” nghĩa là chỉ
chú tâm đến việc xoa dịu những căng thẳng và đi tìm hạnh phúc nhứt thời hơn. Có
lẽ ông bà Việt Nam chúng ta cũng đã hiểu rõ tâm lý con người cho nên mới bảo “Có
thực mới vực được đạo”. Người Tây Phương dường như cũng đồng một quan điểm
chăng khi nói “Hãy ăn đã rồi sau đó mới nói chuyện triết lý” (Primum manducare
deinde philosophare). Quả như người Pháp đã nói: “Bụng đói không có tai” (ventre
affamé n’a point d’oreille), đừng mang chuyện triết lý hay tìm kiếm sự thật ra
mà trao đổi , bàn cãi hay thuyết pháp với
người đang chết đói. Con người ta ai
cũng muốn được thỏa mãn trong những đòi hỏi nhứt thời. Xét cho cùng, khi nói đến
hạnh phúc, con người thường nghĩ đến cái trước mắt hơn là chuyện siêu hình hay
xa xôi. Có lẽ chính vì thế mà “hạnh phúc” là một trong những ý niệm mờ ảo và mơ
hồ hơn cả. Thường nó chỉ là một ảo ảnh đằng sau những thứ dễ “bắt mắt” và thu
hút con người nhứt như tiền của, quyền lực, địa vị, danh vọng...Ai cũng dễ bị
lôi cuốn và chạy theo những thứ ấy. Và có lẽ ai cũng nghĩ rằng hạnh phúc là có
được những thứ ấy và có hơn người khác. Hạnh phúc là có được nhiều của cải vật
chất hơn người khác. Hạnh phúc là có được nhiều quyền lực và danh vọng hơn người
khác. Hạnh phúc là hơn người khác ở một khía cạnh nào đó. Thành ra hạnh phúc có
khi cũng chỉ là một cuộc ganh đua hơn thiệt với người khác và trong ganh đua dĩ
nhiên người ta cũng dễ bị cám dỗ bằng mọi cách, nhứt là bằng dối trá, để triệt
hạ người khác.
Cuộc “chạy đua” và cũng là “ganh đua” vào Tòa Bạch Ốc năm
nay đã cho tôi cái cảm tưởng ấy. Trong suốt một năm tranh cử vừa qua, không
riêng gì ông Donald Trump - người thường được báo chí Mỹ gọi là người “nổ bạo”
(bombastic) thích tuyên bố lung tung, muốn chửi ai thì chửi, chuyện gì cũng phịa được - mà hầu hết các ứng cử viên khác, ai cũng đều nã
ra những viên đại pháo có chứa ngòi nổ của dối trá. Tất cả những lời chửi rủa
thậm tệ của hai bên, nhứt là của hai ứng cử viên được hai Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa
đề cử, đều qui về những tiếng như “lươn lẹo, dối trá”. Ông chửi bà “lươn lẹo”
(crook), bà rủa ông “dối trá, lưu manh”. Dĩ nhiên, cử tri Mỹ lúc nào cũng xem
xét các chính sách được ứng cử viên đề ra để cân nhắc lá phiếu của mình. Nhưng
nhìn chung, trong suốt một năm tranh cử vừa qua, dường như tư cách, đức độ của
các ứng cử viên vẫn là thước đo được các cử tri sử dụng để chọn mặt gởi vàng.
Và sở dĩ người Mỹ đã mắc phải hội chứng “căng thẳng rối loạn do bầu cử” là vì họ
không tìm ra được sự lương thiện và tính khả tín nơi các ứng cử viên. Cuộc bầu
cử năm nay rốt cuộc là một cuộc tìm kiếm sự thật và lương thiện. Người Mỹ có lẽ đã “nhức đầu” và
ngao ngán vì họ không tìm thấy được những đức tính ấy nơi những người muốn làm
nguyên thủ quốc gia của họ.
Tôi có những suy nghĩ như thế khi nhớ lại khẩu hiệu rất
quen thuộc thường được nghe thấy trong các tòa án ở Mỹ. Bị can, nhân chứng hay
bất cứ ai được mời ra tòa làm chứng cũng đều giơ tay tuyên thệ theo công thức: “Tôi thề
nói sự thật, nói hết sự thật và chỉ nói sự thật” (I swear to tell the truth,
the whole truth, and nothing but the truth). Được các nhà lập quốc đề ra như nền
móng để xây dựng nền dân chủ và văn minh, lời thề vốn được người Mỹ xem như một
nghi thức thánh thiêng. Lỗi lời thề này, tức nói dối, bị xem là tội bội thề (perjury).
Trước pháp luật, đây là một hành vi phạm pháp nghiêm trọng. Những ai theo dõi vụ
tai tiếng về tình dục của Tổng thống Bill Clinton với người tập sự viên Monica
Lewinsky hồi năm 1998 đều thấy được tính nghiêm trọng của hành động bội thề. Bị
đưa ra cung khai trước Quốc hội, ông tổng thống tài ba và đào hoa này đã giơ
tay thề thốt “nói sự thật, nói hết sự thật và chỉ nói sự thật”, nhưng lại dùng đủ mọi xảo thuật của một luật sư “dẻo
miệng” để chối bỏ sự dan díu tình dục của mình với cô Lewinsky. Ông suýt bị Quốc
hội bãi nhiệm, không phải vì bê bối tình dục, mà vì bội thề và cản trở công lý.
Do chịu ảnh hưởng của Kitô Giáo, có lẽ phần đông người Mỹ
đều biết câu nói của Chúa Giê Su: “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Tin Mừng
theo Gioan 8, 32). Riêng người Việt Nam, dù không hề biết đến câu nói trên,
cũng đã thấm thía cảm nhận được rằng, kể từ khi người cộng sản cưỡng chiếm Miền
Nam và áp đặt lên chủ nghĩa cộng sản, dối trá là một hình thức nô lệ mới. Với sự
dối trá, người cộng sản đã xiềng xích cả dân tộc vào vòng nô lệ. Họ cũng tự
trói mình vào nô lệ: nô lệ của dối trá, nô lệ của độc tài, nô lệ của quyền lực.
Họ có thể yên vị và ngủ yên trên tiền của và quyền lực. Nhưng liệu đó có phải
là một cuộc sống thực sự hạnh phúc không?
Sự khủng bố dưới mọi hình thức mà chế độ cộng sản đang sử dụng để đàn áp
người dân thực ra cũng chính là bộ mặt khác của sợ hãi. Chính vì sợ hãi mà con
người tìm cách loại trừ người khác. Tựu trung,
dối trá luôn dẫn đến sợ hãi. Người Việt mình đã chẳng nói: “Cây ngay
không sợ chết đứng”! Sống ngay, sống thật, con người chẳng có gì để lo sợ.
Cũng như mọi người, tôi khao khát được sống hạnh phúc. Và
trong khi đi tìm hạnh phúc, tôi lại nhận ra rằng chỉ khi nào tôi dám sống thật
và sống cho sự thật, tâm hồn tôi mới được an bình và tôi mới cảm nhận được thế
nào là thật sự hạnh phúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét