Chu Thập
07.05.13
Khi chọn tựa đề
cho bài viết này, tự nhiên tôi nghĩ đến câu chuyện tiếu lâm “nhà đạo”. Ba bà “đạo
đức” gặp nhau khoe về sự kính trọng mà người khác dành cho con mình. Bà thứ nhứt
khoe: “Con tôi làm linh mục. Ai gặp cũng chào “xin phép lạy cha ạ”. Bà thứ hai
lên giọng: “Nghĩa lý gì. Con tôi làm giám mục. Ai gặp cũng cúi mình, hôn nhẫn
kính cẩn chào: “Con kính lạy đức cha”. Bà thứ ba cười đắc thắng: “Kể sá gì. Thằng
con tôi chẳng cần làm ông gì hết mà ai gặp nó cũng phải thốt lên: “Chúa tôi!” (Oh
my God!). Hai bà kia ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy?” “Có gì lạ đâu, nó mới mười
lăm tuổi mà đã nặng gần hai trăm ký lô”.
Ngày tôi còn nhỏ,
ai dám cả gan kể câu chuyện tiếu lâm này, nếu không bị ông cha sở “dứt phép
thông công” thì có lẽ cũng bị mấy ông câu, ông biện đứng trước cửa nhà thờ chận
lại không cho vào bên trong.
Tôi sinh ra trong
một gia đình công giáo thuần thành. Mới được 3 ngày tuổi, còn đỏ hỏn, tôi đã được
mang đến nhà thờ để được rửa tội. Vừa có trí khôn, biết đọc biết viết, tôi đã
được cho xưng tội, rước lễ lần đầu. Được mặc quần áo tương đối tươm tất để đến
nhà thờ mỗi sáng sớm là một vinh dự. Nhưng vinh dự luôn đi đôi với trách nhiệm.
Mà trách nhiệm đối với một bé trai ngổ ngáo như tôi chỉ có nghĩa là gánh nặng.
Nặng nhứt trong các thứ gánh tôn giáo đặt lên vai tôi là phải đi xưng tội nếu
không hai tuần thì cũng ít nhứt mỗi tháng một lần. Với bà mẹ chuyên đóng vai “cảnh
sát tôn giáo”, tôi khó mà trốn tránh nghĩa vụ này. Có khi không tìm ra tội, tôi
đành phải phịa thôi. Có cái tội mà hầu
như trong lần xưng tội nào tôi cũng phải kể ra là tội “kêu danh Chúa vô cớ”.
Trong xứ đạo toàn tòng của tôi, tuy không đến nỗi dài dòng “Giêsu Ma lạy Chúa tôi!” như người Bắc, nhưng
hầu như ai cũng quen miệng, để tránh chửi thề thì cứ “Chúa ơi” mà kêu.
Ngày đó tôi chẳng
hiểu mình đã xúc phạm đến Chúa như thế nào khi gọi “Chúa ơi”.
Nhưng ngày nay, kể
từ sau cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ, tôi đã hiểu được tính
nghiêm trọng của hành động xúc phạm đến Chúa khi con người nhân danh Ngài, kêu
tên Ngài trước khi ôm bom tự sát để giết hại người vô tội.
Thật ra, nhân danh
Chúa để làm điều ác đâu phải là điều mới mẻ trong lịch sử nhân loại. Đọc lại lịch
sử dân Do Thái, những cuộc “thánh chiến” của họ và nhứt là câu chuyện xuất hành
thoát khỏi kiếp nô lệ bên Ai Cập, tôi không khỏi thắc mắc về chân dung của “Chúa
tôi” như được người Do Thái tuyên xưng và tôn thờ. Liệu tôi có thể tôn thờ một
Thiên Chúa, Đấng, để giải phóng một dân tộc mà Ngài đã chọn làm “dân riêng”, đã
nhẫn tâm sát hại những đứa con đầu lòng vô tội của một dân tộc (Ai Cập) khác
hay không?
Có lẽ cũng nhân
danh một Chúa đó mà thế giới Tây phương thời Trung Cổ đã mở các cuộc thập tự viễn
chinh sang Trung Đông để tàn sát người Hồi Giáo. Có lẽ cũng nhân danh một Chúa
đó mà cũng vào thời Trung Cổ, Giáo hội công giáo của tôi đã thiết lập các tòa
điều tra (Inquisition) để xét xử những người bị cho là “ lạc giáo” và đưa họ
lên giàn hỏa thiêu. Có lẽ cũng nhân danh một Chúa đó mà với nhiệt tâm truyền đạo,
có khi Tin Mừng lại được rao truyền bằng gươm giáo hay họng súng. Và có lẽ cũng
nhân danh một Chúa đó mà với lòng sốt sắng bảo vệ “đạo thánh Chúa”, các tín hữu
kitô chẳng ngần ngại xử dụng chính những phương tiện và khí giới hoàn toàn nghịch
lại với Tin Mừng của Tình Thương.
Mới đây tôi có đọc
được truyện ngắn có tựa đề “Lời xưng tội lúc nửa đêm” của nhà văn Vũ Thư Hiên.
Tôi đã đọc truyện ngắn này như bản xét mình để tự vấn lương tâm về cách sống đạo
của tôi.
Tôi nghĩ có lẽ nhà
văn Vũ Thư Hiên, tác giả của “Đêm giữa
ban ngày”, quyển hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, cũng
có cùng những khắc khoải như tôi khi ông viết truyện ngắn “Lời xưng tội lúc nửa đêm”. Tôi đoán như thế bởi vì trong quyển tiểu
thuyết tự thuật có tựa đề “Miền thơ ấu”,
ông có kể lại cái gốc gác “công giáo” của ông lúc còn ở Thái Bình.
Truyện ngắn “Lời xưng tội lúc nửa đêm”, tuy hư cấu,
nhưng có lẽ đã được tác giả xây dựng trên một số sự kiện lịch sử có thật, mà
khu tự trị “Bùi Chu Phát Diệm” của người công giáo chống lại cộng sản là một điển
hình. Trong câu chuyện, nhà văn Vũ Thư Hiên cho hai con người không đội trời
chung được gặp nhau trong những giây phút nguy ngập nhứt của cuộc đời. Một bên
là một cựu cán bộ cộng sản đang hấp hối. Một bên là vị linh mục già. Hai người
đã từng “đụng độ” nhau trong một trận nào đó. Tuy không phải là một người công
giáo, người cựu đảng viên cộng sản già muốn trút bỏ một lần cho hết cái gánh nặng
đã từng đè trên lương tâm ông suốt cả một đời. Ông “xưng thú” với vị linh mục
mà như nói với chính mình: “Trên đường
truy kích những tên cầm súng bắn chúng tôi, tôi gặp một thanh niên nằm ngửa, mắt
mở to. Anh ta đã chết, đạn xuyên qua bụng phá ra hông thành một lỗ toác
hoác…Tôi dừng lại, vuốt mắt cho anh ta. Tại sao tôi lại làm như thế, tôi không
hiểu. Tôi đã dự nhiều trận đánh, đã thấy nhiều xác chết trong đủ mọi kiểu chết…Tôi
dừng lại vì vẻ thánh thiện trên gương mặt trong sáng của người chết. Anh ta đẹp
quá. Mà cái đẹp sinh ra để làm gì nếu không phải để tạo ra niềm vui, để dành
cho tình yêu? Lẽ ra anh ta phải sống, để ôm ấp trong tay một người con gái đẹp,
xứng đáng với anh ta. Để rồi cô gái sẽ sinh cho anh những đứa trẻ đẹp như bố mẹ
chúng. Vậy mà anh ta đã chết…” Người thanh niên đó chính là em ruột của vị
linh mục già.
Đọc giả cứ tưởng “lời
xưng tội lúc nửa đêm” là của người cán bộ cộng sản sắp chết, bởi vì chính ông
đã nhờ người nhà mời cho bằng được vị linh mục già đến bên giường bệnh. Kỳ thực,
vị linh mục già mới thực sự là kẻ thú tội. Tác giả Vũ Thư Hiên kể lại: “Lời
xưng tội của người bệnh khiến toàn thân linh mục ớn lạnh. Ông chân thành quỳ xuống,
thú nhận: “Tôi nhìn thấy một người lính
ngã xuống trước họng súng của tôi. Viên đạn bắn trúng anh ta có thể không phải
là của tôi, tôi không dám nói chắc, nhưng cũng như ông, tôi nghĩ viên đạn là của
tôi. Lúc đó tôi còn trẻ. Có lẽ trẻ hơn ông. Lúc đó chúng tôi nhìn các ông như kẻ
thù không đội trời chung. Chúng tôi đã quên lời dạy của Chúa: “Hãy thương yêu
người ta như mình vậy”. Chính tôi là một trong những người được bề trên sai
trói chín anh bộ đội vào đám xú vẹt năm trước đó. Trong số chín người ấy có một
anh bộ đội rất trẻ. Khi tôi trói anh ta, anh ta nhìn tôi và thật ngạc nhiên,
tôi không thấy trong đôi mắt ấy có một chút oán giận, một chút căm thù. Chỉ có
sự ngỡ ngàng, bối rối, như trước một điều khó hiểu. Tôi đứng gần đấy cho đến
khi nước triều lên chậm chạp, bắt đầu vượt qua đầu gối họ, lên tới bụng họ, rồi
tới ngực họ. Cả chín người đều im lặng. Tôi chờ anh thanh niên kia van xin tha
chết, nhưng anh ta im lặng. Tôi không chịu nổi cái nhìn ấy hơn nữa, tôi không
còn sức để chịu đựng nữa, tôi hấp tấp bỏ đi vài phút trước khi nước lên tới cằm
họ…”
Người cán bộ già
xưng tội với vị linh mục già không chỉ vì chàng trai mà ông vuốt mắt là người
em ruột của vị linh mục, mà còn bởi vì ông muốn được vị linh mục, người đại diện
cho tầng lớp người dân bị chế độ của ông truy sát, giết hại…nói lời tha thứ cho
ông. Ông muốn được làm người bạn hữu và anh em của “kẻ thù” trước khi đi vào một
nơi không còn hận thù chém giết nữa.
Về phần mình, vị
linh mục già xưng tội không chỉ vì đã can dự vào việc tra tấn sát hại người
khác, mà còn muốn thay mặt giáo đoàn của mình để thú nhận rằng ông và họ đã
không sống đúng lời dạy của Chúa “hãy thương yêu người ta như mình vậy”.
Cho tới những giây
phút cuối đời, người cán bộ già vẫn thú nhận rằng ông chẳng tin có Chúa hay thần
thánh nào cả. Vị linh mục già, khi nhìn nhận tội ác của mình, hẳn cũng muốn nói
lên rằng Chúa mà ông nhân danh để tra tấn và sát hại người đồng loại không phải
là Chúa Chân Thật.
Nhân danh chủ
nghĩa cộng sản như một tôn giáo, người cán bộ đã sát hại chính những người đồng
bào ruột thịt của mình. Nhưng cũng chẳng vừa gì, nhân danh Chúa và để bảo vệ đạo
giáo của mình, vị linh mục cũng đã từng nhúng tay vào tội ác. Cả hai đều sẵn
sàng chết cho chúa của mình, một vị chúa
do họ đã nhào nặn ra hơn là vị Chúa Chân Thật, Chúa của Tình Thương. Người cựu
cán bộ cộng sản đã nhìn nhận: “Khi đã có
Chúa trong tay, bất kể là Chúa nào- Chúa tìm thấy, Chúa tạo ra, Chúa vay mượn,
Chúa mua sắm, Chúa nhập cảng- tức thì nó lấy ngay Chúa mà nó sở hữu, Chúa của
riêng nó, của phe phái nó tròng vào cổ đồng loại, coi đó là ưu thế của nó trên
đồng loại, để được cảm thấy mình cao sang hơn đồng loại, chung cuộc là để thống
trị đồng loại…”
Không biết tôi có
đọc được sứ điệp mà nhà văn Vũ Thư Hiến muốn chuyển tải qua truyện ngắn “Lời
xưng tội lúc nửa đêm” không. Nhưng trong cảm nhận riêng của mình, tôi nghĩ rằng
bên kia mọi ý thức hệ, mọi thứ chủ nghĩa, mọi thứ thần tượng và mọi tôn giáo,
con người có thể gặp nhau và điểm hẹn ấy chính là tấm lòng hướng thiện bẩm sinh
trong con người. Con người có thể nhân danh tấm lòng ấy để mà yêu thương nhau
và tha thứ cho nhau. Trái lại, bao lâu còn bám víu vào một vị Chúa do mình tạo
ra và bằng mọi giá phải “bảo vệ” cho bằng được, con người vẫn có thể loại trừ,
cắn xé lẫn nhau.
Chúa Chân Thật hẳn
chỉ có thể là Đấng có thể bị tổn thương khi chính con người nhân danh Ngài để hãm
hại người đồng loại của mình. Chúa Chân Thật hẳn chỉ có thể là Đấng mà ngay cả
khi bị chối bỏ cũng chẳng hề cảm thấy bị xúc phạm, miễn là khi con người được
tôn trọng và yêu thương.
Trong quyển tiểu
thuyết có tựa đề “Sự thinh lặng” (Silence), nhà văn nổi tiếng người Nhựt
Shusaku Endo đã kể lại thời kỳ bách hại dã man mà các tín hữu Kitô tiên khởi của
Nhựt Bản đã trải qua trong hai thế kỷ 16 và 17. Chuyện kể về một linh mục dòng
tên người Bồ Đào Nha, sau khi hay tin một linh mục bạn của mình vì không chịu đựng
nổi cuộc bách hại đã “bỏ đạo”, đã sang thế chỗ để lo cho cộng đoàn giáo dân. Thử
thách khủng khiếp nhứt mà vị linh mục phải đương đầu là lúc những kẻ bách hại
đưa các tín hữu ra trước pháp trường để hành hình và bắt ông phải chứng kiến cuộc
tra tấn. Họ đặt vị linh mục trước một chọn lựa: hoặc là nhìn thấy cảnh các tín
hữu Kitô bị hành hạ cho đến chết hoặc là chính ông phải “bỏ đạo”, nghĩa là chối
bỏ Chúa của mình. Cuối cùng, để cho giáo dân của mình được sống, vị linh mục đã
chọn việc chối bỏ Chúa.
Nếu chính Ngài bị
xúc phạm mà con người được sống thì có lẽ một Thiên Chúa Chân Thật, bởi vì là
Tình Thương, sẽ chẳng cảm thấy bị xúc phạm chút nào cả. Chúa đâu cần phải ra một
luật chống phạm thượng để ngăn ngừa hành vi xúc phạm của con người. Có chăng một
luật mà Ngài đã ghi khắc trong tâm hồn con người, thì luật đó chỉ có thể là “hãy
yêu thương người ta như mình ta vậy”.
Đã có “hội y sĩ
không biên giới”, “hội các ký giả không biên giới”…và nhiều thứ hội không biên
giới khác. Tôi cũng nghĩ đến “Đạo không biên giới”. Đó là Đạo qua đó, bên kia mọi
thứ rào cản của tôn giáo, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, văn hóa, chính kiến…mọi
người đều có thể gặp gỡ nhau, tôn trọng nhau, yêu thương nhau và nhứt là cảm
thông và tha thứ cho nhau. Lúc đó, sẽ chẳng có một Chúa của riêng tôi, do tôi tạo
ra, mà chỉ có một Chúa của Tình Thương mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét