Chu Thập
14.05.13
Lúc nhỏ, trong các
loài gai, tôi ghét nhứt là gai “mắc cỡ”. Trong thi ca và âm nhạc, như trong một
ca khúc của Trần Thiện Thanh chẳng hạn, nó được thi vị hóa thành loài “hoa
trinh nữ”. Nghe lãng mạn làm sao! Trong
khi người Bắc gọi nó là hoa “xấu hổ” thì ở quê tôi, nó chỉ là gai chớ chưa được “thăng hoa” để trở
thành hoa, bởi vì khi bị gai châm đau người ta chẳng còn thấy hoa hòe hoa sói gì nữa. Đi ruộng với hai
bàn chân không, vô ý đạp lên nó, đau chết điếng, tìm không ra kim hay gai để “lể”
nó ra thì chỉ biết ngồi đó mà than trời hay cùng lắm nhảy cò cò mà đi. Đá banh
cũng với hai bàn chân không mà “sút” phải một bụi gai “mắc cỡ” thì đúng là thấy 36 ông sao và coi như chả còn hứng
thú gì để mà chơi tiếp.
Có những thứ ngày
xưa tôi xem thường hay thậm chí ghét nữa, vậy mà ngày nay, xa quê hương, tự
nhiên tôi lại thấy nhớ. Nhiều lúc, tôi cứ nghĩ: giá như trong cái “quê hương bỏ
túi” đàng sau nhà mà có được một bụi gai “mắc cỡ” thì đỡ nhớ nhà biết chừng
nào! Vả lại, ngày nay, nhìn vào thiên nhiên, ở đâu tôi cũng đọc được một “sứ điệp”.
Hoa nào cũng gợi nhớ hay nhắc nhở về một điều gì đó. Hoa “mắc cỡ” không thể
không mách bảo tôi về một khả năng cao quý nhứt trong con người, cao quý đến độ
nếu không có, con người chẳng còn là người nữa. Khả năng đó chính là biết “xấu
hổ”.
Có sừng sỏ đến
đâu, một khi đã làm điều xấu, ai cũng cảm thấy “hổ thẹn”, nhứt là khi hành động
xấu được phơi bày ra trước mắt người khác. Ariel Castro, người đã giam giữ, xiềng
xích và hãm hiếp 3 cô gái tại Cleveland, tiểu bang Ohio, Hoa kỳ trong cả một thập
niên, khi bị bắt giữ và đưa ra trước công chúng, đã không trơ mặt ra, mà trái lại
vẫn tìm cách che đậy một phần bộ mặt của mình. “Con quỷ” như một người anh và một
người em của ông đã gọi ông, vẫn còn tỏ dấu biết “xấu hổ” vì hành vi đồi bại của
mình.
“Xấu hổ” là biết
nhận ra sai phạm của mình. Trong đám đông hay trước mặt người khác, người ta có
thể ưỡn ngực, vênh mặt ra. Nhưng như thi sĩ Chế Lan Viên, người đã nhận ra chiếc
bánh vẽ mình đang ngoạm trong miệng, đã nói: “khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”. Chẳng có ai biết trở về với
nội tâm sâu kín của mình mà không biết xấu hổ, nghĩa là phân biệt được thiện
ác, phải trái, chân giả và nhận ra sai lầm của mình.
Trên phụ trương
GoodWeekend (GW) của báo The Sydney Morning Herald, số ra cuối tuần 11-12 tháng
5 vừa qua, phóng viên Barney Henderson đã kể lại cuộc hành trình bi thảm của một
kẻ khủng bố trong vụ thảm sát tại Mumbai, Ấn Độ ngày 26 tháng 11 năm 2008.
Vụ khủng bố đã sát
hại 166 người, trong số này có 22 người ngoại quốc.
Trong 10 tên khủng
bố, người sống sót duy nhứt tên là Ajmal Amir Kasab.
Kasab vừa tròn 21
tuổi khi anh mang chiếc AK-47 tiến vào nhà ga xe lửa Victoria ở Mumbai và nã súng
loạn xạ vào đám đông, không phân biệt nam nữ, tuổi tác.
Kasab sinh ra và lớn
lên tại một làng nhỏ sống bằng nghề nông, thuộc tỉnh Punjab, Pakistan. Gia đình
lâm cảnh túng quẫn khi người cha mắc bệnh lao phổi. Tuy mới 11 tuổi, Kasab đã bị
cha bắt phải nghỉ học để làm việc đỡ đần cho gia đình bằng nghề đi bán dạo. Cậu
bé thích học võ, xem phim “Bolliwood” của Ấn Độ và mơ ước được trở thành một
người hoàn toàn khác với cha mình. Càng lớn, anh càng chán cái nghề bán dạo cho
nên thường xuyên xung khắc với cha mẹ.
Năm 2005, Kasab
quyết định đổi đời cho nên mới lên Lahore để tìm việc, với hy vọng kiếm được tiền
gởi về giúp gia đình. Anh làm đủ thứ nghề từ rửa chén trong nhà hàng đến nhân
viên sai vặt trong một nhà nghỉ. Nhưng trước một tương lai vẫn mãi đen tối,
Kasab lại muốn đổi đời một lần nữa. Lần này, anh gia nhập vào một nhóm thanh
niên đường phố chuyên ăn cắp vặt, nhưng cái “nghề” này cũng chẳng khấm khá được.
Cuối cùng, tháng 12 năm 2007, anh chỉ thực sự “đổi đời” khi gặp một giáo sĩ hồi
giáo.
Giáo sĩ này tên là
Shabaan Mustaq, người chuyên trách về chiêu mộ và giáo dục của Phong trào có
tên là “LeT” vốn có chủ trương “giải phóng” vùng Kashmir khỏi Ấn Độ. Kasab được
giáo sĩ Mustaq hứa sẽ giúp “đổi đời”. Ba ngày sau cuộc gặp gỡ với giáo sĩ này,
Kasab liền được gởi đến tập huấn tại một nơi bí mật ở Đông Bắc Pakistan. Trong
thời gian huấn luyện về tác chiến, cùng với kinh kệ của hồi giáo, anh hoàn toàn
bị tẩy não.
Tháng 2 năm 2008,
anh được phép trở về làng cũ để thăm gia đình. Trẻ con trong làng loé mắt trước
tài võ nghệ của anh. Mẹ anh khuyên anh nên ở lại để lập gia đình. Nhưng Kasab
cho biết anh phải tham gia cuộc “thánh chiến”. Anh hiểu rất đơn giản về thánh
chiến: thánh chiến nghĩa là sát hại người khác và chết để được nổi tiếng.
Nhưng không may
cho anh, trong khi 9 người bạn khác của anh đã “tử đạo” sau vụ khủng bố, anh chỉ
bị thương và bị cảnh sát Ấn Độ bắt giữ. Tháng 3 năm 2010, anh bị kết án tử
hình. Trong thời gian bị giam giữ, người thanh niên, nay đã 25 tuổi, đã khóc
như một đứa con nít.
Một tháng sau khi
bị bắt, anh đã được các viên chức điều tra dẫn đến một nhà xác ở Mumbai để nhìn
tận mặt tử thi của 9 người bạn khủng bố khác. Nhìn cảnh thối rữa của thân xác
những người khủng bố, Kasab chỉ biết ôm mặt khóc. Anh nói rằng trong thời gian
tập huấn, các huấn luyện viên đã không ngừng nói với anh rằng “khi các chiến sĩ
“thánh chiến” qua đời, gương mặt họ sẽ chiếu sáng như mặt trăng, thân xác họ tỏa
ngát hương thơm và họ sẽ lên thiên đàng”. Giờ đây, khi nhìn thấy thi thể thối rữa
của các bạn mình, Kasab mới nhận ra rằng mình đã bị lừa.
Anh đã bị treo cổ
ngày 21 tháng 11 năm vừa qua. Những lời nói cuối cùng của anh là: “Tôi thề trước Đấng Allah, tôi sẽ không bao
giờ phạm một sai lầm như thế nữa”.
Khi nhận ra sai lầm
của mình thì đã muộn. Nhưng ít ra, người thanh niên khủng bố này đã sống đủ để
biết mình đã phạm tội ác, để phân biệt được đâu là lẽ phải, đâu là dối trá.
Trong đáy thẳm tâm hồn của anh vẫn còn một chút lương tri để nhận biết mình đã
sai lầm và dĩ nhiên biết “xấu hổ” vì hành động tội ác của mình. Anh đã trở lại
“bình thường” khi biết khóc và biết hối hận vì tội ác của mình.
Người thanh niên
đã tưởng “thánh chiến” là sát hại và bị sát hại để trở thành một người nổi tiếng
hay được lên thiên đàng. Nhưng những ngày trước khi bị hành quyết, anh đã hiểu
ra rằng “thánh chiến” đích thực chính là quay trở về với nội tâm để tham gia
vào cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa chân và giả ngay trong chính bản thân
mình. Nếu có một vòng hoa chiến thắng dành cho những ai tham gia vào cuộc chiến
nội tâm này, tôi nghĩ vòng hoa đó phải là vòng hoa kết bằng hoa “xấu hổ”.
Cách đây 3 năm, mấy
ông cộng sản Việt Nam đã bày đặt tổ chức bình chọn Quốc Hoa, nghĩa là chọn loại
hoa nào có đầy đủ những đặc tính khả dĩ nói lên được dân tộc tính. Hoa sen đã
được chọn làm “quốc hoa”. Thật ra, hoa sen, dù có thân thuộc và gần gũi với người
Việt Nam đến đâu, cũng chưa hẳn là đặc trưng của đất nước. Nhiều nước láng giềng
hay trong khu vực Đông Nam Á có nhiều sen đẹp hơn Việt Nam. Nhiều nước như Ấn độ
chẳng hạn đã chọn sen trắng làm quốc hoa rồi.
Cách đây 30 năm, Hội
Nhà Văn trong nước đã từng đề nghị chọn hoa xấu hổ làm quốc hoa. Mới đây, trên báo “Phụ Nữ today” trong nước,
một tác giả cũng đã lập lại đề nghị này. Tác giả đưa ra một số lý do như sau: “Về tính phổ biến, không cần phải bàn cãi nhiều
vì đó là hoa dại, với sức sống mãnh liệt của một loài cây dại. Hoa xấu hổ dù chỉ
là một loài hoa nhỏ nhưng nó là biểu tượng cho sức sống bền bỉ, khả năng thích
nghi mãnh liệt khi có thể tồn tại và phát triển ở khắp các vùng trong cả nước…Vì
thế chọn hoa dại làm quốc hoa hẳn cũng phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên của
đất nước.
Hoa
xấu hổ cũng đại diện cho tính cách người con gái Việt. Sống sát đất đen, loài
hoa đó vẫn giữ sự e ấp, thẹn thùng. Và nó đẹp, mầu tím hồng phơn phớt trên những
nhụy hoa mỏng như tơ khiến cho bất cứ ai chợt nhìn thấy đều dâng lên cảm xúc nhẹ
nhàng thư thái. Và nó cũng là biểu tượng của sự thủy chung, đức tính được đề
cao nhất của người phụ nữ Việt.
Một
lý do cũng không kém phần quan trọng, ngay từ cái tên của mình, hoa xấu hổ đã gợi
nhắc một phẩm chất cần có của con người: lòng tự trọng. Biết xấu hổ là còn tự
trọng, đó là điều vô cùng cần thiết, thậm chí không thể thiếu. Cuộc sống hiện đại
khiến nhiều người đánh mất sự biết xấu hổ, cho nên, khi nhìn thấy quốc hoa là
loài hoa này, họ sẽ giật mình nhận ra điều mà họ đang thiếu”.
Nghe nói hồi tháng
Ba vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại
ra lệnh cho Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch tổ chức thăm dò ý kiến của người dân về
việc chọn một loại hoa làm quốc hoa. Kết quả cuộc thăm dò lại cũng cho thấy hoa
sen lúc nào cũng dẫn đầu.
Nhưng giả như hoa
xấu hổ có được người dân bỏ phiếu bình chọn làm quốc hoa đi nữa thì chắc chắn ông
thủ tướng mà giây thần kinh xấu hổ đã hoàn toàn bị tê liệt và mấy ông cộng sản
chóp bu khác cũng chẳng chịu đâu.
Tôi vẫn thường tự
hỏi: nếu biết xấu hổ thì liệu người ta có còn làm người cộng sản nữa không?
Trong những ngày vừa
qua, dư luận trên khắp thế giới không ngừng bàn tán về vụ bắt cóc, xiềng xích,
giam hãm làm nô lệ tình dục xảy ra tại Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ. Có lẽ mấy ông cộng
sản Việt Nam cũng đã theo dõi và lên án gay gắt chẳng thua gì ai.
Nô lệ tình dục, nô
lệ dưới mọi hình thức đang diễn ra trên khắp thế giới. Nhưng đó chỉ là hành động
lén lút và lẻ tẻ của một số cá nhân hay của một số tổ chức mà thôi. Chế độ nô lệ
đã chính thức bị bãi bỏ từ lâu. Vậy mà tại Việt Nam hiện nay, nếu phải tìm một
từ để mô tả về cuộc sống của người dân dưới chế độ cộng sản, thì có lẽ chẳng có
từ nào thích hợp hơn là “chế độ nô lệ”. Nô lệ là người bị tước đoạt tất cả những
quyền tự do căn bản của con người, trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng,
tự do lương tâm…là nền tảng nhứt. Bên kia song sắt nhà tù nhỏ là nơi mà bất cứ
người dân nào cũng đều là “ứng viên” có thể bị đưa vào bất cứ lúc nào là cả một
nhà tù lớn trong đó mọi sinh hoạt của con người đều bị quy định, hạn chế và kiểm
soát. Sống như thế không phải là sống kiếp nô lệ sao?
Điều đáng buồn là
rất nhiều người, do hội chứng Stokholm (tức bênh vực cho những kẻ đã giam hãm
mình làm nô lệ) không những không ý thức được tình trạng nô lệ của mình mà còn
bênh vực cho chế độ nô lệ trong đó mình đang bị giam giữ. Buồn hơn nữa khi
chính những kẻ giam giữ cả nước trong chế độ nô lệ như thế cũng chưa một lần nhận
ra tội ác của mình và bày tỏ bất cứ một dấu hiệu nào của sự xấu hổ.
Tôi nghĩ: dù có ngồi
ở đỉnh cao quyền lực, dù có thu tóm tất cả của cải của đất nước vào tay mình,
dù có hưởng tất cả mọi lạc thú mà tiền của và quyền lực mang lại, khi đã đánh mất
khả năng xấu hổ, nghĩa là không còn biết phân biệt đâu là thiện ác, phải trái,
chân giả…sống như thế là sống kiếp cây cỏ không hơn không kém bởi có những con
chó trong nhà còn biết cúi mặt khi bị “mắng vốn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét