Thứ Tư, 23 tháng 11, 2016

“Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”



Chu Thập
14.05.13


Lúc nhỏ, trong các loài gai, tôi ghét nhứt là gai “mắc cỡ”. Trong thi ca và âm nhạc, như trong một ca khúc của Trần Thiện Thanh chẳng hạn, nó được thi vị hóa thành loài “hoa trinh nữ”. Nghe lãng mạn làm sao!  Trong khi người Bắc gọi nó là hoa “xấu hổ” thì ở quê tôi,  nó chỉ là gai chớ chưa được “thăng hoa” để trở thành hoa, bởi vì khi bị gai châm đau người ta chẳng còn  thấy hoa hòe hoa sói gì nữa. Đi ruộng với hai bàn chân không, vô ý đạp lên nó, đau chết điếng, tìm không ra kim hay gai để “lể” nó ra thì chỉ biết ngồi đó mà than trời hay cùng lắm nhảy cò cò mà đi. Đá banh cũng với hai bàn chân không mà “sút” phải một bụi gai “mắc cỡ” thì  đúng là thấy 36 ông sao và coi như chả còn hứng thú gì để mà chơi tiếp.
Có những thứ ngày xưa tôi xem thường hay thậm chí ghét nữa, vậy mà ngày nay, xa quê hương, tự nhiên tôi lại thấy nhớ. Nhiều lúc, tôi cứ nghĩ: giá như trong cái “quê hương bỏ túi” đàng sau nhà mà có được một bụi gai “mắc cỡ” thì đỡ nhớ nhà biết chừng nào! Vả lại, ngày nay, nhìn vào thiên nhiên, ở đâu tôi cũng đọc được một “sứ điệp”. Hoa nào cũng gợi nhớ hay nhắc nhở về một điều gì đó. Hoa “mắc cỡ” không thể không mách bảo tôi về một khả năng cao quý nhứt trong con người, cao quý đến độ nếu không có, con người chẳng còn là người nữa. Khả năng đó chính là biết “xấu hổ”.
Có sừng sỏ đến đâu, một khi đã làm điều xấu, ai cũng cảm thấy “hổ thẹn”, nhứt là khi hành động xấu được phơi bày ra trước mắt người khác. Ariel Castro, người đã giam giữ, xiềng xích và hãm hiếp 3 cô gái tại Cleveland, tiểu bang Ohio, Hoa kỳ trong cả một thập niên, khi bị bắt giữ và đưa ra trước công chúng, đã không trơ mặt ra, mà trái lại vẫn tìm cách che đậy một phần bộ mặt của mình. “Con quỷ” như một người anh và một người em của ông đã gọi ông, vẫn còn tỏ dấu biết “xấu hổ” vì hành vi đồi bại của mình.
“Xấu hổ” là biết nhận ra sai phạm của mình. Trong đám đông hay trước mặt người khác, người ta có thể ưỡn ngực, vênh mặt ra. Nhưng như thi sĩ Chế Lan Viên, người đã nhận ra chiếc bánh vẽ mình đang ngoạm trong miệng, đã nói: “khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”. Chẳng có ai biết trở về với nội tâm sâu kín của mình mà không biết xấu hổ, nghĩa là phân biệt được thiện ác, phải trái, chân giả và nhận ra sai lầm của mình.
Trên phụ trương GoodWeekend (GW) của báo The Sydney Morning Herald, số ra cuối tuần 11-12 tháng 5 vừa qua, phóng viên Barney Henderson đã kể lại cuộc hành trình bi thảm của một kẻ khủng bố trong vụ thảm sát tại Mumbai, Ấn Độ ngày 26 tháng 11 năm 2008.
Vụ khủng bố đã sát hại 166 người, trong số này có 22 người ngoại quốc.
Trong 10 tên khủng bố, người sống sót duy nhứt tên là Ajmal Amir Kasab.
Kasab vừa tròn 21 tuổi khi anh mang chiếc AK-47 tiến vào nhà ga xe lửa Victoria ở Mumbai và nã súng loạn xạ vào đám đông, không phân biệt nam nữ, tuổi tác.
Kasab sinh ra và lớn lên tại một làng nhỏ sống bằng nghề nông, thuộc tỉnh Punjab, Pakistan. Gia đình lâm cảnh túng quẫn khi người cha mắc bệnh lao phổi. Tuy mới 11 tuổi, Kasab đã bị cha bắt phải nghỉ học để làm việc đỡ đần cho gia đình bằng nghề đi bán dạo. Cậu bé thích học võ, xem phim “Bolliwood” của Ấn Độ và mơ ước được trở thành một người hoàn toàn khác với cha mình. Càng lớn, anh càng chán cái nghề bán dạo cho nên thường xuyên xung khắc với cha mẹ.
Năm 2005, Kasab quyết định đổi đời cho nên mới lên Lahore để tìm việc, với hy vọng kiếm được tiền gởi về giúp gia đình. Anh làm đủ thứ nghề từ rửa chén trong nhà hàng đến nhân viên sai vặt trong một nhà nghỉ. Nhưng trước một tương lai vẫn mãi đen tối, Kasab lại muốn đổi đời một lần nữa. Lần này, anh gia nhập vào một nhóm thanh niên đường phố chuyên ăn cắp vặt, nhưng cái “nghề” này cũng chẳng khấm khá được. Cuối cùng, tháng 12 năm 2007, anh chỉ thực sự “đổi đời” khi gặp một giáo sĩ hồi giáo.
Giáo sĩ này tên là Shabaan Mustaq, người chuyên trách về chiêu mộ và giáo dục của Phong trào có tên là “LeT” vốn có chủ trương “giải phóng” vùng Kashmir khỏi Ấn Độ. Kasab được giáo sĩ Mustaq hứa sẽ giúp “đổi đời”. Ba ngày sau cuộc gặp gỡ với giáo sĩ này, Kasab liền được gởi đến tập huấn tại một nơi bí mật ở Đông Bắc Pakistan. Trong thời gian huấn luyện về tác chiến, cùng với kinh kệ của hồi giáo, anh hoàn toàn bị tẩy não.
Tháng 2 năm 2008, anh được phép trở về làng cũ để thăm gia đình. Trẻ con trong làng loé mắt trước tài võ nghệ của anh. Mẹ anh khuyên anh nên ở lại để lập gia đình. Nhưng Kasab cho biết anh phải tham gia cuộc “thánh chiến”. Anh hiểu rất đơn giản về thánh chiến: thánh chiến nghĩa là sát hại người khác và chết để được nổi tiếng.
Nhưng không may cho anh, trong khi 9 người bạn khác của anh đã “tử đạo” sau vụ khủng bố, anh chỉ bị thương và bị cảnh sát Ấn Độ bắt giữ. Tháng 3 năm 2010, anh bị kết án tử hình. Trong thời gian bị giam giữ, người thanh niên, nay đã 25 tuổi, đã khóc như một đứa con nít.
Một tháng sau khi bị bắt, anh đã được các viên chức điều tra dẫn đến một nhà xác ở Mumbai để nhìn tận mặt tử thi của 9 người bạn khủng bố khác. Nhìn cảnh thối rữa của thân xác những người khủng bố, Kasab chỉ biết ôm mặt khóc. Anh nói rằng trong thời gian tập huấn, các huấn luyện viên đã không ngừng nói với anh rằng “khi các chiến sĩ “thánh chiến” qua đời, gương mặt họ sẽ chiếu sáng như mặt trăng, thân xác họ tỏa ngát hương thơm và họ sẽ lên thiên đàng”. Giờ đây, khi nhìn thấy thi thể thối rữa của các bạn mình, Kasab mới nhận ra rằng mình đã bị lừa.
Anh đã bị treo cổ ngày 21 tháng 11 năm vừa qua. Những lời nói cuối cùng của anh là: “Tôi thề trước Đấng Allah, tôi sẽ không bao giờ phạm một sai lầm như thế nữa”.
Khi nhận ra sai lầm của mình thì đã muộn. Nhưng ít ra, người thanh niên khủng bố này đã sống đủ để biết mình đã phạm tội ác, để phân biệt được đâu là lẽ phải, đâu là dối trá. Trong đáy thẳm tâm hồn của anh vẫn còn một chút lương tri để nhận biết mình đã sai lầm và dĩ nhiên biết “xấu hổ” vì hành động tội ác của mình. Anh đã trở lại “bình thường” khi biết khóc và biết hối hận vì tội ác của mình.
Người thanh niên đã tưởng “thánh chiến” là sát hại và bị sát hại để trở thành một người nổi tiếng hay được lên thiên đàng. Nhưng những ngày trước khi bị hành quyết, anh đã hiểu ra rằng “thánh chiến” đích thực chính là quay trở về với nội tâm để tham gia vào cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa chân và giả ngay trong chính bản thân mình. Nếu có một vòng hoa chiến thắng dành cho những ai tham gia vào cuộc chiến nội tâm này, tôi nghĩ vòng hoa đó phải là vòng hoa kết bằng hoa “xấu hổ”.
Cách đây 3 năm, mấy ông cộng sản Việt Nam đã bày đặt tổ chức bình chọn Quốc Hoa, nghĩa là chọn loại hoa nào có đầy đủ những đặc tính khả dĩ nói lên được dân tộc tính. Hoa sen đã được chọn làm “quốc hoa”. Thật ra, hoa sen, dù có thân thuộc và gần gũi với người Việt Nam đến đâu, cũng chưa hẳn là đặc trưng của đất nước. Nhiều nước láng giềng hay trong khu vực Đông Nam Á có nhiều sen đẹp hơn Việt Nam. Nhiều nước như Ấn độ chẳng hạn đã chọn sen trắng làm quốc hoa rồi.
Cách đây 30 năm, Hội Nhà Văn trong nước đã từng đề nghị chọn hoa xấu hổ làm quốc hoa.  Mới đây, trên báo “Phụ Nữ today” trong nước, một tác giả cũng đã lập lại đề nghị này. Tác giả đưa ra một số lý do như sau: “Về tính phổ biến, không cần phải bàn cãi nhiều vì đó là hoa dại, với sức sống mãnh liệt của một loài cây dại. Hoa xấu hổ dù chỉ là một loài hoa nhỏ nhưng nó là biểu tượng cho sức sống bền bỉ, khả năng thích nghi mãnh liệt khi có thể tồn tại và phát triển ở khắp các vùng trong cả nước…Vì thế chọn hoa dại làm quốc hoa hẳn cũng phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên của đất nước.
Hoa xấu hổ cũng đại diện cho tính cách người con gái Việt. Sống sát đất đen, loài hoa đó vẫn giữ sự e ấp, thẹn thùng. Và nó đẹp, mầu tím hồng phơn phớt trên những nhụy hoa mỏng như tơ khiến cho bất cứ ai chợt nhìn thấy đều dâng lên cảm xúc nhẹ nhàng thư thái. Và nó cũng là biểu tượng của sự thủy chung, đức tính được đề cao nhất của người phụ nữ Việt.
Một lý do cũng không kém phần quan trọng, ngay từ cái tên của mình, hoa xấu hổ đã gợi nhắc một phẩm chất cần có của con người: lòng tự trọng. Biết xấu hổ là còn tự trọng, đó là điều vô cùng cần thiết, thậm chí không thể thiếu. Cuộc sống hiện đại khiến nhiều người đánh mất sự biết xấu hổ, cho nên, khi nhìn thấy quốc hoa là loài hoa này, họ sẽ giật mình nhận ra điều mà họ đang thiếu”.
Nghe nói hồi tháng Ba vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  lại ra lệnh cho Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch tổ chức thăm dò ý kiến của người dân về việc chọn một loại hoa làm quốc hoa. Kết quả cuộc thăm dò lại cũng cho thấy hoa sen lúc nào cũng dẫn đầu.
Nhưng giả như hoa xấu hổ có được người dân bỏ phiếu bình chọn làm quốc hoa đi nữa thì chắc chắn ông thủ tướng mà giây thần kinh xấu hổ đã hoàn toàn bị tê liệt và mấy ông cộng sản chóp bu khác cũng chẳng chịu đâu.
Tôi vẫn thường tự hỏi: nếu biết xấu hổ thì liệu người ta có còn làm người cộng sản nữa không?
Trong những ngày vừa qua, dư luận trên khắp thế giới không ngừng bàn tán về vụ bắt cóc, xiềng xích, giam hãm làm nô lệ tình dục xảy ra tại Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ. Có lẽ mấy ông cộng sản Việt Nam cũng đã theo dõi và lên án gay gắt chẳng thua gì ai.
Nô lệ tình dục, nô lệ dưới mọi hình thức đang diễn ra trên khắp thế giới. Nhưng đó chỉ là hành động lén lút và lẻ tẻ của một số cá nhân hay của một số tổ chức mà thôi. Chế độ nô lệ đã chính thức bị bãi bỏ từ lâu. Vậy mà tại Việt Nam hiện nay, nếu phải tìm một từ để mô tả về cuộc sống của người dân dưới chế độ cộng sản, thì có lẽ chẳng có từ nào thích hợp hơn là “chế độ nô lệ”. Nô lệ là người bị tước đoạt tất cả những quyền tự do căn bản của con người, trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do lương tâm…là nền tảng nhứt. Bên kia song sắt nhà tù nhỏ là nơi mà bất cứ người dân nào cũng đều là “ứng viên” có thể bị đưa vào bất cứ lúc nào là cả một nhà tù lớn trong đó mọi sinh hoạt của con người đều bị quy định, hạn chế và kiểm soát. Sống như thế không phải là sống kiếp nô lệ sao?
Điều đáng buồn là rất nhiều người, do hội chứng Stokholm (tức bênh vực cho những kẻ đã giam hãm mình làm nô lệ) không những không ý thức được tình trạng nô lệ của mình mà còn bênh vực cho chế độ nô lệ trong đó mình đang bị giam giữ. Buồn hơn nữa khi chính những kẻ giam giữ cả nước trong chế độ nô lệ như thế cũng chưa một lần nhận ra tội ác của mình và bày tỏ bất cứ một dấu hiệu nào của sự xấu hổ.
Tôi nghĩ: dù có ngồi ở đỉnh cao quyền lực, dù có thu tóm tất cả của cải của đất nước vào tay mình, dù có hưởng tất cả mọi lạc thú mà tiền của và quyền lực mang lại, khi đã đánh mất khả năng xấu hổ, nghĩa là không còn biết phân biệt đâu là thiện ác, phải trái, chân giả…sống như thế là sống kiếp cây cỏ không hơn không kém bởi có những con chó trong nhà còn biết cúi mặt khi bị “mắng vốn”.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét