Chu Thập
10.1.12
Vốn chủ trương “ăn cây nào rào cây ấy”,
cho nên hễ có dịp là tôi “quảng cáo” tối đa cho cái vùng của tôi. Nhắc đến
Central Coast, thì phần lớn người Việt nam, nhứt là dân câu cá, chỉ nói đến The
Entrance. Tôi cũng đã một vài lần đến thử thời vận ở cái nơi “đô hội” này.
Nhưng cứ nhìn cái cảnh dân câu, mà đa số là di dân, chen chúc nhau để quăng cần
loạn xà ngầu và nhứt là sự rình rập đêm ngày của nhân viên kiểm soát hải sản là
tôi thấy “oải” rồi. Kỳ thực, cái vùng mà
người dân Úc chỉ biết đến vì có một số dân biểu “nổi tiếng” vì tai tiếng như bà
Belinda Neal hay ông Craig Thompson, có rất nhiều thứ khác đáng được biết đến
hơn. Tôi không quá chủ quan, bởi vì tạp
chí Time, trong số ra ngày 6 tháng 12 năm vừa qua, cũng đã dành cho vùng
Central Coast của tôi một trang quảng cáo rất “rôm rả”. Hầu như ai ở đây cũng dễ dàng có điều
kiện để sống gần sông nước, rừng núi, nông trại hoặc bãi biển mà không cần phải
là triệu phú. Là một “peninsula” (bán đảo) cho nên bãi biển rải rác khắp nơi.
Những cái tên như Avoca, Terrigal, Ettalong, Pearl Beach, Patonga dễ dàng gợi
lên cho người ta những bãi biển đẹp sạch, thưa người và còn giữ vẻ đẹp của
thiên nhiên. Gần nhà tôi nhứt có hồ Brisbane Water. Đây là nơi dân chơi Yatch
thường tập trung lại để giương những cánh buồm trắng xóa. Riêng dân câu cá như
tôi thì nhìn đâu cũng chỉ thấy cá. Tôi thích nhìn cảnh cá nhảy trong cảnh hoàng
hôn trên mặt hồ mỗi khi đổi con nước. Thật bình yên và thanh thản.
Không biết có phải do tôi “nổ” quá hay
vì muốn gặp lại tôi mà những ngày đầu năm dương lịch vừa qua, nhiều “phái
đoàn" từ Sydney, không “quản ngại đường xá xa xôi trắc trở”, đã kéo nhau đến
thăm. Đây là những món quà đầu năm quý giá nhứt và có ý nghĩa nhứt đối với tôi.
Cho tới nay, mỗi lần ra ngõ gặp hàng xóm, tôi vẫn thấy mình có đủ lý do để “ngất
cao đầu lên” như ai vì cũng được bạn bè xa gần chiếu cố đến. Tôi phải ngẩng đầu
lên là vì cách đây không lâu, mỗi lần ra khỏi nhà, tôi cứ như phải cúi đầu mà
đi chớ không dám nhìn ánh mắt mà tôi nghĩ là hơi soi mói của cư dân trong xóm,
bởi vì báo chí địa phương đưa tin 9 vụ “trồng cỏ” trong vòng hơn một tháng bị cảnh
sát phát giác mà trong đó có đến 6 vụ liên quan đến những người mang những họ rất
phổ thông như Nguyễn, Lê, Trần v.v.
Dân cư trong cái xóm nhỏ và yên ắng của
tôi hẳn sẽ không bao giờ quên được hình ảnh của một nguyên một chiếc xe buýt đầy
người cố gắng uốn éo trên con đường nhỏ để rồi đậu xuống trước nhà tôi ngay buổi
sáng ngày đầu năm dương lịch. Phải khen và cám ơn anh tài xế bạn tôi. Nhờ anh
mà tôi đã có thể gặp lại thật nhiều người thân quen trong cùng một lúc và có được
một ngày đầy ắp tình người ở một nơi mà có đốt đèn giữa ban ngày cũng khó tìm
được một người đồng hương.
Tối chúa nhựt vừa qua, nhiều cảm xúc vui
buồn lẫn lộn đã trào dâng trong tôi khi xem cuốn phim tài liệu “Once upon a time in Cabramatta” được
trình chiếu trên đài SBS. Vui vì được nhìn thấy những hình ảnh sinh hoạt của
nơi được xem là thủ đô tỵ nạn của người Việt nam tại Úc. Buồn vì phải theo dõi lại
những cảnh đời đầy nước mắt của nhiều gia đình tỵ nạn.
Xa quê hương, được sống gần nhau, nói
cùng một tiếng nói, ăn cùng một thức ăn, chia sẻ cùng một tâm tình của người xa
xứ...đây là điều mà ai chẳng mong muốn. Nhưng bên cạnh niềm vui ấy là bao nhiêu
những buồn phiền khổ lụy do cuộc sống trong các cộng đồng người Việt có thể
mang lại. Tôi hiểu được tại sao, để tránh những hệ lụy xã hội và nhứt là vì
tương lai của con cái, nhiều người đành phải hy sinh niềm vui được sống với người
đồng hương để đi lập nghiệp ở một nơi xa lạ.
Đó là một mất mát lớn. Tôi hoàn toàn
chia sẻ sự mất mát ấy. Cũng may, thời buổi này, nhờ các phương tiện giao thông
và nhứt là kỹ thuật truyền thông “số” (digital), gặp nhau không phải là điều bất
khả thi nữa. Chỉ cần cầm điện thoại, bấm vài cái là đã có thể nghe được tiếng
nói của người ở xa. Ở cái xứ sở văn minh này, lái xe 2,3 tiếng đồng hồ để đi
câu còn được, huống chi là đi gặp những người thân và bạn bè. Thành ra, ở nơi “thâm
sơn cùng cốc” mà tôi vẫn có thể tiếp tục gặp gỡ với bạn bè và người thân bằng rất
nhiều cách. Tôi vẫn xem các quan hệ ấy là điều tối quan trọng cho cuộc sống.
Càng tiến về “bóng xế” của cuộc đời, tôi lại càng thấy nhu cầu phải duy trì hay
thiết lập những quan hệ lành mạnh với mọi người.
Mới đây, Bronnie Ware, một nữ y tá người
Úc chuyên chăm sóc những bệnh nhân vào giai đoạn cuối, đã ghi lại những điều ước
muốn của họ trong một cuốn sách có tựa đề “The
top five regrets of the dying” (5 điều hối tiếc lớn nhứt của những người sắp
qua đời). Lớn nhứt trong những điều hối tiếc này là “không có đủ can đảm để sống
cho mình thay vì sống theo ước muốn của người khác”. Nhưng quan trọng không kém
đó là hối tiếc vì đã không giữ được “liên lạc với bạn bè”. Theo tác giả, nhiều
người không thực sự biết đựơc giá trị của tình bạn cũ cho tới những tuần cuối đời
và nhiều khi không còn kịp tìm lại bạn cũ nữa. Đời sống bận bịu, ai cũng có lúc
bỏ bê bè bạn. Đến cuối đời, ai cũng nhận ra rằng chỉ có bạn bè và người thân là
quan trọng.
Tôi không có nhiều “Bè Bạn Gần Xa” như nhà văn, ký giả Lô răng Phan Lạc Phúc. Tôi cũng
chưa tham gia các văn đàn đủ lâu để có thể viết về “Bạn văn, một thuở” như nhà văn Nguyễn Mộng Giá hoặc có đủ quen biết
để “Viết về bè bạn” như tác giả Bùi
Ngọc Tấn của “Chuyện kể năm 2000”.
Bạn thân của tôi và “bè bạn” của tôi đa
số là những người vô danh. Có những người bạn chí cốt quen nhau từ lúc còn mặc
quần thủng đáy trên ghế trường làng. Có những người bạn chỉ mới quen trong thời
gian gần đây. Có những người bạn tri kỷ và có vô số những người bạn chỉ mới gặp
gỡ trong một lần đi câu. Có những người bạn đồng chí hướng, có cùng một sở
thích mà cũng có vô số những người bạn hễ gặp nhau là cãi nhau inh ỏi...Với
tôi, dù thân quen hay xa cách, dù hợp khẩu hay khắc khẩu, người bạn nào cũng làm
cho đời tôi thêm phong phú hơn mà thôi.
Lúc nhỏ, cha mẹ và thày cô cứ dặn bảo phải
“chọn bạn mà chơi”. Cha mẹ tôi hẳn phải buồn lòng không ít vì bên cạnh những đứa
bạn “phá xóm phá làng”, tôi có rất nhiều bạn chăn trâu chuyên rủ tôi trốn học.
Với những người bạn này thì câu nói “học thày không tày học bạn” xem ra đã ứng
dụng một cách rất chính xác. Tôi học ở trường lớp thì ít, mà học được ở những
người bạn chăn trâu thì nhiều. Ngoài những kinh nghiệm sống, cách ứng xử khôn
lanh, những bài học “cách trí”, tôi còn học được ở những người bạn chăn trâu những
điều rất cơ bản về giáo dục giới tính đầy dẫy trong thiên nhiên.
Tôi cũng được cái may mắn tiếp xúc và kết
thân với rất nhiều bạn bè “bên lương”. Cái xóm giáo nhỏ của tôi có óc “biệt
phái” rất cao. Lúc tôi còn nhỏ, dân “có đạo” cứ nhìn người “ngoại” như “vô đạo”
và ngăn cấm không cho lũ trẻ chúng tôi giao du với những đứa trẻ “ngoại đạo”,
vì sợ chúng tôi bị lung lạc “mất đức tin” và ngay cả “mất dạy” nữa.
Về tình bạn, nhiều người vẫn trích câu
nói: “Bạn hãy nói cho tôi biết bạn chơi với
ai, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là ai”. Dĩ nhiên, “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Tự nhiên ai cũng thích tìm đến những
người giống mình. Ai cũng muốn gặp gỡ những người có cùng sở thích, cái nhìn về
cuộc sống, quan điểm và nhứt là chính kiến. Kỳ thực, một tình bạn đích thực có
khi đòi hỏi con người phải vượt qua và đón nhận những khác biệt của nhau, nhờ
đó mới có thể chia sẻ và làm giàu cho nhau.
Trong tình bạn, người ta cũng thường ứng
xử theo nguyên tắc “kẻ thù của kẻ thù ta
là bạn của ta”. Xử sự như thế là gia tăng tinh thần cục bộ, đầu óc phe phái
cũng như chối bỏ vai trò trung gian và hòa giải thường rất cần thiết cho các
quan hệ giữa người với người. Dĩ nhiên, trong cuộc sống, có ai mà không có kẻ
thù. Có được thương mến bao nhiêu thì cũng không tránh khỏi những kẻ ghen ghét.
Nhưng sống mà nhìn đâu cũng thấy “thù địch” hay cứ phải bận tâm phân biệt “ bạn
thù” thì chắc chắn không thể nào có được cái tâm an bình. Tôi luôn ngưỡng mộ Đức
Đạt Đai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng. Ngài luôn nhìn mọi người bằng
ánh mắt của cảm thông. Với Ngài, tất cả những nhà độc tài, ngay cả những người
đang đày đọa dân tộc và quê hương của Ngài, Ngài đều xem họ như những “nạn
nhân” cần được giải thoát và thương yêu hơn là thù ghét.
Những ngày đầu năm, cùng với vô số những
quyết tâm mà năm nào tôi cũng muốn lập lại, tôi thấy trước hết cần phải trau dồi
tâm tình cảm thông đối với mọi người, bởi vì tôi biết rằng tôi sẽ chẳng bao giờ
có được cái tâm an bình nếu tôi vẫn còn cưu mang cừu hận trong lòng.
Sự hiện diện của bạn bè và người thân
trong những ngày đầu năm vừa qua mang lại cho tôi một niềm vui lớn và cũng nhắc
nhở tôi điều đó: tôi không thể sống an bình nếu không xây dựng những quan hệ
hài hòa với mọi người. Dù có muốn sống ẩn dật đến đâu, tôi cũng vẫn không thể cắt
đứt liên hệ với người khác. Quả thực, “không
ai là một hòn đảo”.
Cách đây 3 thế kỷ rưỡi, khi linh mục,
thi sĩ và luật sư John Donne người Anh viết: “Không ai là một hòn đảo”, thì đảo vẫn còn bị xem là một phần đất
hoàn toàn bị cô lập với thế giới. Cách đây không lâu, một khoa học gia đặt chân
đến một hòn đảo còn trinh nguyên nằm trong Thái bình dương. Hòn đảo này nằm
cách một hòn đảo gần nhứt và có người ở khoảng 500 cây số và cách đất liền khoảng
5000 cây số. Nhà khoa học ngạc nhiên vô cùng bởi vì trên bãi biển của hòn đảo
tưởng chưa có một vết tích nào của văn minh nhân loại chạm tới, ông lại thấy có
nhiều vỏ chai và các túi ni lông.
Ngày nay, hơn cả thời của John Donne, với
sự phát triển của các phương tiện giao thông và truyền thông, có lẽ chẳng còn
hòn đảo nào là chưa có người đặt chân tới nữa. Hình ảnh ấy giúp chúng ta hiểu
được câu hỏi thời danh của John Donne “không
ai là một hòn đảo”. Ngày nay, dù dân số thế giới đã vượt qua 7 tỷ người,
không còn có người nào trên mặt đất này còn bị xem là đứng chơi vơi giữa trời
biển nữa. Không cách này thì cách khác, mọi người đều liên hệ với nhau và mỗi
người đều liên hệ với mọi người. Như một viên đá cuội ném vào đại dương, cách
hành xử thiếu trách nhiệm ở một xó xỉnh nào đó trên mặt đất cũng đều tạo ra một
âm vang nào đó đối với những nơi khác. Ngược lại, một nghĩa cử, dù được làm
trong âm thầm, cũng vẫn ảnh hưởng đến người khác. Tất cả chúng ta đều là công
dân của một công đồng rộng lớn là nhân loại. Trách nhiệm liên đới ấy luôn mời gọi
tôi xem niềm vui của người khác cũng là của mình và nỗi khổ của bất cứ một ai
đó, dù xa lạ đến đâu, cũng phải là nỗi khổ của riêng tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét