Chu Thập
21.2.12
Tôi là người không có khiếu về nhạc. Một
mớ nhạc lý bị nhồi nhét vào đầu thời trung học và học lóm từ bạn bè chỉ vừa đủ
để tôi có thể xướng âm và hát u ơ vào câu cho vui. Trừ thánh ca là loại nhạc mà
tôi thường xuyên hát trong nhà thờ và hát với tất cả tâm tình, tôi chẳng thuộc
được một bài tình ca nào cho trọn. Có cố gắng cách mấy, tôi cũng chỉ nhớ được một
câu đầu hoặc một vài câu tâm đắc. Sở thích âm nhạc của tôi cũng lên xuống theo
tuổi tác và thời kỳ.
Vào tuổi thanh niên, dĩ nhiên, tôi thích
hát nhạc tình, bất kể là tình ca nhạc trẻ hay nhạc “sến”. Ở cái tuổi mò mẫm đi
tìm một lý tưởng, tôi cũng đã say mê ca khúc của Lê Hựu Hà: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên,
Tôi
muốn sống như loài hoa hiền.
Tôi
muốn làm một thứ cỏ cây.
Vui
trong gió và không ưu phiền.
Tôi
muốn mọi người biết thương nhau.
Không
oán ghét không gây hận sầu.
Tôi
muốn đời hết nghĩa thương đau.
Tôi
muốn thấy tình yêu ban đầu...
Tôi
muốn thành loài thú đi hoang.
Tôi
muốn sống như loài chim ngàn.
Tôi
muốn cười vào những khoe khoang.
Tôi
muốn khóc thương đời điêu tàn...”
Lạ thật, có lẽ đây là ca khúc duy nhất vẫn
còn in đậm trong trí nhớ kém cỏi của tôi. Ngày nay, khi chăm sóc cây cối, hoa cỏ,
ao cá hay gia cầm, tôi vẫn thấy những lời khuyên ý vị của nhạc sĩ Lê Hựu Hà như
những con sóng nhẹ nhàng cuộn lên, giục tôi cứ mãi yêu đời, dù có lúc phải“hãy cố yêu người mà sống, lâu rồi đời mình
cũng qua” (Bài không tên số 5 của Vũ Thành An).
Đầu thập niên 80, bắt đầu kiếp ly hương
trong trại tiếp cư, đêm ngày tôi chỉ biết nằm ôm cái máy cassette để nghe Nguyệt
Ánh thương khóc “Sài gòn ơi, ta mất người
như người đã mất tên”.
Những năm Việt nam bắt đầu mở cửa, thấy
người ta nườm nượp kéo nhau về thăm nhà, nỗi nhớ quê hương trong tôi lại càng thúc
bách hơn. Dạo đó, tôi đã hát theo ca sĩ Nini đến gần như thuộc lòng ca khúc của
Linh Giang:
“Tôi
muốn làm cánh chim trời.
Bay
về quê cũ thăm quê hương tôi.
Nơi
đó, tôi có bạn bè.
Có
giòng sông cũ có lũy tre xanh.
Tôi
muốn thành cánh chim trời.
Bay
về quê cũ thăm quê hương tôi.
Nơi
đó tôi có mẹ già.
Có
người yêu dấu có trời Việt nam”.
Tôi gần như muốn khóc khi hát theo:
“Quê
hương ơi,
Tôi
đã khóc khi chiều về,
Mơ
thật nhiều ôm muộn phiền cho kiếp người.
Quê
hương ơi,
Tôi
sẽ chết trên quê người,
Không
bạn bè không một người thân bên mình...”
Ở vào cái tuổi không còn mộng mơ, lãng mạn
hay tình tứ nữa, tôi lại thấy tình cảm quê hương ngày càng đậm đà hơn. Bất cứ
điều gì gợi nhớ quê hương cũng đều có thể tạo ra cảm xúc trong tôi. Chẳng hạn
như dạo năm 2006, khi nhạc sĩ người Bỉ Marc Lavoine sáng tác bài “Bonjour Viet Nam” (Thân Chào Việt nam)
và được cô gái Bỉ gốc Việt Phạm Quỳnh Anh, trình bày, tôi nghe đến gần như thuộc
lòng từng lời trong ca khúc. Người nhạc sĩ ngoại quốc này đã diễn tả đúng tâm
trạng của một người Việt nam sinh ở hải ngoại, ước mong được một lần về thăm
quê cha đất tổ để “được nhìn bằng đôi mắt của mình, được trở về cội nguồn” của
mình, chứ không chỉ biết qua phim ảnh. Làm sao không cảm động khi nghe cô gái Bỉ
gốc Việt bày tỏ:
“Ước
mong về thăm đất nước tôi.
Mong
sao quê hương dang tay đón tôi.
Tôi
sẽ thăm những dòng sông, đồng quê xanh mát Việt nam. Ước mong về thăm chốn
thiêng.
Mong
sao quê hương dang tay đón tôi.
Mong
ước đến ngày về thăm.
Lòng
tôi yêu mến Việt nam.
Lòng
tôi vang tiếng Việt nam.
Lòng
tôi xin chào Việt nam.”
Quả thật, tình tự “quê hương” nào cũng
có sức làm bật lên trong tôi những bồi hồi xúc động. Có khi là sự phẫn nộ. Chẳng
hạn như gần đây, khi nhạc sĩ Việt Khang trong nước sáng tác ca khúc “Anh là ai?” để phản đối việc nhà nước cộng
sản Việt nam không những cấm, đàn áp dã man mà con bắt giam tù những ai tham
gia biểu tình chống Cộng sản Trung quốc cướp đất, cướp biển...tình yêu quê
hương trong tôi sôi sục đến độ biến thành phẫn nộ. Nghe tiếng hát của người nhạc
sĩ trẻ và hay tin chính anh cũng bị giam
tù vì sáng tác ca khúc này, có chai lì và “vô cảm” đến đâu, có trái tim nào mà
không biết phẫn nộ.
Tôi đã nghe chính Việt Khang diễn tả tâm
tình của anh. Tôi đã nghe nhiều ca sĩ Việt nam hải ngoại hát lên ca khúc. Tôi
cũng đã nghe ca sĩ Pháp Antoine Figali trình bày. Nhưng tôi đã xúc động và cười
ra nước mắt khi nghe tiếng hát của một cậu bé trai 2 tuổi trên YouTube. Chắc chắn
YouTube này đã được thực hiện ở hải ngoại. Nếu ở trong cái nước cộng hòa XHCN Việt
nam thì người thân hay có lẽ chính cậu bé này cũng bị tù rục xương thôi. Trong
YouTube, người ta thấy cậu bé hát theo một cuốn băng ghi sẵn. Có lúc cậu bé
cũng vò đầu, bứt tóc và gào thét như thể để bày tỏ những cảm xúc và sự phẫn nộ
của mình.
Tuổi thơ quả là tuổi đặt những câu hỏi
và thường là những câu hỏi mà người lớn hoặc không thể trả lời, không muốn trả
lời hoặc muốn tránh né. Trên môi miệng của trẻ thơ, “Anh là ai, sao đánh tôi không một
chút nương tay” quả là một câu hỏi nhức nhối. Câu hỏi ấy nhức nhối là bởi
vì xuất phát từ chính hiện thân của sự trong trắng, ngây thơ, hồn nhiên, lương
thiện và của chính lương tri con người.
Dĩ nhiên, câu hỏi ấy trước tiên được đặt
ra cho những người công an trong chế độ cộng sản Việt nam. Trong bài bình luận
với tựa đề “Chế độ lấy ghế che mặt”, đăng trên báo Người Việt hôm 17 tháng 2 vừa
qua, nhà báo Ngô Nhân Dụng đã ghi lại “cảnh
một anh công an chìm nâng chiếc ghế lên mặt khi kỹ sư Đỗ Nam Hải đưa tay chụp
hình khiến người coi phải động lòng trắc ẩn. Nó chứng tỏ người công an này biết
xấu hổ”. Theo ông, “ghế là đồ dùng để
ngồi lên, đem ghế che mặt là vạn bất đắc dĩ, cũng không khác gì lấy cái đũng quần
mà che lên mặt. Mạnh Tử coi tính biết xấu hổ là một dấu hiệu của tính Thiện bẩm
sinh trong mỗi người. Biết xấu hổ là một trong bốn đầu mối của các đức tính
Nhân Nghĩa Lễ Trí”.
Ở Việt nam ngày nay, có lẽ cũng còn có
những người công an biết xấu hổ như anh công an chìm lấy ghế che mặt trên đây. Thật
ra, họ cũng chỉ là những công cụ của chế độ. Có người vì một chút bã vinh hoa.
Có người vì chén cơm manh áo. Họ cũng là những con người đáng thương. Vì chấp
nhận làm công cụ cho chế độ mà đành phải ra tay đàn áp, hãm hại những người đồng
bào ruột thịt của mình. Thời buổi mà có lẽ chẳng có chế độ nào còn có đủ phù
phép để kiểm soát hoàn toàn hệ thống Internet, chắc chắc tiếng gào thét của cậu
bé 2 tuổi trong YouTube đã về tới Việt nam và cũng đã được chính những người
công an lắng nghe. Mong họ cũng còn có đủ tỉnh táo để cho tiếng gào thét ấy đi
sâu vào lương tri và nhận biết mình là ai đối với người đồng bào ruột thịt của
mình.
Liệu tiếng gào thét của cậu bé 2 tuổi
trên đây có thấu đến tai của những “thượng đế” nắm quyền sinh sát trong đất nước
Việt nam ngày nay không? Tôi tin chắc là họ đã nghe được tiếng gào thét ấy.
“Xin
hỏi anh là ai, sao bắt tôi, tôi làm điều gì sai.
Xin
hỏi anh là ai, sao đánh tôi, chẳng một chút nương tay.
Xin
hỏi anh là ai, không cho tôi xuống đường để tỏ bày?” Nhưng câu hỏi
như thế không phải chỉ dành cho những người công an ra tay hành hạ đồng bào ruột
thịt của mình như những cái máy, mà chính là được nhắn gởi đến những ông Nguyễn
Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng...và cái nhóm 13 người trong ban bí thư Trung ương Đảng,
những người đang tự cho mình có quyền sinh sát đối với cả dân tộc.
Vua Louis XIV của Pháp vào thế kỷ thứ
17, người thường được hay tự mệnh danh là “ông vua mặt trời” (Roi soleil) đã từng
vỗ ngực tuyên bố: “Nhà nước là chính Ta” (l’Etat c’est moi). Ông dám tuyên bố
như thế vì cho rằng quyền lực của ông do Thượng Đế ủy thác. Do đó, hễ ông muốn
là Trời muốn. Mà đã Trời muốn thì thần dân phải cúi đầu vâng phục, ngay cả khi
phải gánh chịu bất công và cái chết.
Ở thế kỷ 21, trong khi hầu hết các nước
trên thế giới đều theo thể chế dân chủ, những ông vua cộng sản Việt nam có lẽ vẫn
còn muốn sống ở thế kỷ 17 khi không ngừng đưa ra những lời tuyên bố tương tự.
Chính vì “tổ quốc là Đảng, Nhà nước là Đảng”, mà Đảng là một nhóm nhỏ những người
thu tóm mọi quyền lực và của cải trong tay, cho nên người dân bị đối xử chẳng
khác nào đàn cừu trong tay của thiểu số đó. Tựu trung, Đảng chẳng khác gì một
thứ “Thượng Đế” của cả dân tộc.
“Anh
là ai?”
Giả như những Nguyễn Phú Trọng, những Nguyễn Tấn Dũng...biết lắng nghe tiếng
gào thét của cậu bé 2 tuổi, để cho tiếng nói của lương thiện, của lương tri, của
Tính Thiện bẩm sinh trong trái tim được dâng trào, thì có lẽ họ sẽ không còn tiếp
tục đối xử với người đồng bào của mình như thế nữa.
Đã làm người thì một lúc nào đó trong đời,
ai cũng phải tự hỏi: “Tôi là ai?”
trong tương quan với người đồng bào và đồng loại của mình. “Tôi là ai?” để xem người khác như thú vật, cỏ cây? “Tôi là ai?” để chối bỏ những quyền cơ bản
nhất của người khác, để chà đạp phẩm giá của người khác? “Tôi là ai?” để thu tóm mọi quyền lực, của cải và có thể tỏ ra vô cảm,
vô tâm trước nỗi khổ đau của người đồng loại? “Tôi là ai?” để có thể ngồi trên nỗi khổ đau của người khác mà vui
hưởng cuộc sống?
Cách chúng ta trên hai mươi mấy thế kỷ, ở
mặt tiền của Đền thờ thần Apollo ở Delphi, người Hy lạp đã biết nhắc nhở những
người qua đường: “Hãy tự biết mình”.
Lời khuyên này đã trở thành khởi đầu của minh triết đối với nhiều nhà hiền triết
Hy lạp và quyết tâm thay đổi cuộc sống của nhiều người. Trong các thứ hiểu biết,
thì biết mình vẫn là điều quan trọng nhất. Ngay cả biết mình ngu dốt cũng đã là
một sự hiểu biết cao siêu nhất.
Nhưng có lẽ tôi sẽ không biết tôi là ai
nếu không đặt mình vào tương quan với người khác.
Trong cuốn sách “Wer bin Ich? Wenn ja,
dann wieviel? Eine kleine Reise in die Philosophie” (Tôi là ai? Nếu đúng là
tôi, thì có mấy tôi? Một cuộc du ngoạn vào Triết học, bản dịch của Phạm Hồng
Lam), tác giả người Đức Richard David Precht, kể lại rằng trong một đài phát
thanh mà ông thỉnh thoảng đến cộng tác, có một bà giữ cửa luôn có vẻ mặt hốc hác.
Bà nổi tiếng về thái độ bất thân thiện của mình. Thay vì tỏ ra vui vẻ và dễ tính,
bà làm cho mọi người khó chịu vì tính bướng bỉnh của bà. Nhưng ông Precht nói rằng
mỗi khi thấy đứa con trai nhỏ của ông thì bà hoàn toàn thay đổi thái độ. Mắt bà
long lanh, khuôn mặt bà rạng rỡ. Bà ôm lấy đứa bé hôn lấy hôn để. Xem ra không
gì có thể cản được niềm vui của bà khi nhìn thấy đứa bé. Khi ông và đứa bé ra về,
hạnh phúc vẫn còn tràn ngập trong con người bà. Theo ông, người đàn bà này hẳn
phải là một người rất cô đơn, vì không có bạn bè và người quen xung quanh.
Tác giả liên tưởng tới triết gia Pháp
Jean Jacques Rousseau. Ông triết gia sống vào giữa thế kỷ 18 này cho rằng con
người tự bản chất hoàn toàn là tốt, nhưng bị văn minh, khoa học và xã hội làm
cho ra đồi bại. Có lẽ do chủ trương đó mà ông sinh con đẻ cái một cách bừa bãi,
bỏ rơi chúng hay đưa chúng vào các viện mồ côi và tự giam mình trong một lâu
đài để gậm nhấm cô đơn, thất vọng, buồn phiền và cay đắng.
Theo tác giả, “sẵn sàng trao đổi với người khác và lo lắng cho người khác là lối
thoát ra khỏi sự tự giới hạn của mình. Làm một cái gì cho tha nhân là điều quan
trọng cho tâm linh của mình. Chẳng hạn đi tìm một món quà đẹp và thấy ra được
niềm vui của người nhận quà, người đó đồng thời cũng đang tặng quà cho chính
mình”.
“Anh
là ai?” Câu hỏi của Việt Khang có lẽ không chỉ dành
cho những người cộng sản Việt nam. Tôi cảm thấy chính mình cũng bị tra vấn. Tôi
sẽ là gì? Tôi có còn là con người không, tôi có còn là tôi không nếu tôi không
nhìn nhận, tôn trọng, yêu thương và sống cho người khác?
Tự nhiên, tôi nghe vang vọng đâu đó lời
kêu gọi của cố nhạc sĩ Lê Hựu Hà: “Tôi muốn
mọi người biết thương nhau. Không oán ghét không gây hận sầu.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét