Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Anh là ai, Tôi là ai?



Chu Thập
21.2.12

Tôi là người không có khiếu về nhạc. Một mớ nhạc lý bị nhồi nhét vào đầu thời trung học và học lóm từ bạn bè chỉ vừa đủ để tôi có thể xướng âm và hát u ơ vào câu cho vui. Trừ thánh ca là loại nhạc mà tôi thường xuyên hát trong nhà thờ và hát với tất cả tâm tình, tôi chẳng thuộc được một bài tình ca nào cho trọn. Có cố gắng cách mấy, tôi cũng chỉ nhớ được một câu đầu hoặc một vài câu tâm đắc. Sở thích âm nhạc của tôi cũng lên xuống theo tuổi tác và thời kỳ.
Vào tuổi thanh niên, dĩ nhiên, tôi thích hát nhạc tình, bất kể là tình ca nhạc trẻ hay nhạc “sến”. Ở cái tuổi mò mẫm đi tìm một lý tưởng, tôi cũng đã say mê ca khúc của Lê Hựu Hà: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên,
Tôi muốn sống như loài hoa hiền.
Tôi muốn làm một thứ cỏ cây.
Vui trong gió và không ưu phiền.
Tôi muốn mọi người biết thương nhau.
Không oán ghét không gây hận sầu.
Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau.
Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu...
Tôi muốn thành loài thú đi hoang.
Tôi muốn sống như loài chim ngàn.
Tôi muốn cười vào những khoe khoang.
Tôi muốn khóc thương đời điêu tàn...”  
Lạ thật, có lẽ đây là ca khúc duy nhất vẫn còn in đậm trong trí nhớ kém cỏi của tôi. Ngày nay, khi chăm sóc cây cối, hoa cỏ, ao cá hay gia cầm, tôi vẫn thấy những lời khuyên ý vị của nhạc sĩ Lê Hựu Hà như những con sóng nhẹ nhàng cuộn lên, giục tôi cứ mãi yêu đời, dù có lúc phải“hãy cố yêu người mà sống, lâu rồi đời mình cũng qua” (Bài không tên số 5 của Vũ Thành An).
Đầu thập niên 80, bắt đầu kiếp ly hương trong trại tiếp cư, đêm ngày tôi chỉ biết nằm ôm cái máy cassette để nghe Nguyệt Ánh thương khóc “Sài gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên”.
Những năm Việt nam bắt đầu mở cửa, thấy người ta nườm nượp kéo nhau về thăm nhà, nỗi nhớ quê hương trong tôi lại càng thúc bách hơn. Dạo đó, tôi đã hát theo ca sĩ Nini đến gần như thuộc lòng ca khúc của Linh Giang:
“Tôi muốn làm cánh chim trời.
Bay về quê cũ thăm quê hương tôi.
Nơi đó, tôi có bạn bè.
Có giòng sông cũ có lũy tre xanh.
Tôi muốn thành cánh chim trời.
Bay về quê cũ thăm quê hương tôi.
Nơi đó tôi có mẹ già.
Có người yêu dấu có trời Việt nam”.
Tôi gần như muốn khóc khi hát theo:
“Quê hương ơi,
Tôi đã khóc khi chiều về,
Mơ thật nhiều ôm muộn phiền cho kiếp người.
Quê hương ơi,
Tôi sẽ chết trên quê người,
Không bạn bè không một người thân bên mình...”
Ở vào cái tuổi không còn mộng mơ, lãng mạn hay tình tứ nữa, tôi lại thấy tình cảm quê hương ngày càng đậm đà hơn. Bất cứ điều gì gợi nhớ quê hương cũng đều có thể tạo ra cảm xúc trong tôi. Chẳng hạn như dạo năm 2006, khi nhạc sĩ người Bỉ Marc Lavoine sáng tác bài “Bonjour Viet Nam” (Thân Chào Việt nam) và được cô gái Bỉ gốc Việt Phạm Quỳnh Anh, trình bày, tôi nghe đến gần như thuộc lòng từng lời trong ca khúc. Người nhạc sĩ ngoại quốc này đã diễn tả đúng tâm trạng của một người Việt nam sinh ở hải ngoại, ước mong được một lần về thăm quê cha đất tổ để “được nhìn bằng đôi mắt của mình, được trở về cội nguồn” của mình, chứ không chỉ biết qua phim ảnh. Làm sao không cảm động khi nghe cô gái Bỉ gốc Việt bày tỏ:
Ước mong về thăm đất nước tôi.
Mong sao quê hương dang tay đón tôi.
Tôi sẽ thăm những dòng sông, đồng quê xanh mát Việt nam. Ước mong về thăm chốn thiêng.
Mong sao quê hương dang tay đón tôi.
Mong ước đến ngày về thăm.
Lòng tôi yêu mến Việt nam.
Lòng tôi vang tiếng Việt nam.
Lòng tôi xin chào Việt nam.”
Quả thật, tình tự “quê hương” nào cũng có sức làm bật lên trong tôi những bồi hồi xúc động. Có khi là sự phẫn nộ. Chẳng hạn như gần đây, khi nhạc sĩ Việt Khang trong nước sáng tác ca khúc “Anh là ai?” để phản đối việc nhà nước cộng sản Việt nam không những cấm, đàn áp dã man mà con bắt giam tù những ai tham gia biểu tình chống Cộng sản Trung quốc cướp đất, cướp biển...tình yêu quê hương trong tôi sôi sục đến độ biến thành phẫn nộ. Nghe tiếng hát của người nhạc sĩ trẻ và hay tin chính anh cũng  bị giam tù vì sáng tác ca khúc này, có chai lì và “vô cảm” đến đâu, có trái tim nào mà không biết phẫn nộ.
Tôi đã nghe chính Việt Khang diễn tả tâm tình của anh. Tôi đã nghe nhiều ca sĩ Việt nam hải ngoại hát lên ca khúc. Tôi cũng đã nghe ca sĩ Pháp Antoine Figali trình bày. Nhưng tôi đã xúc động và cười ra nước mắt khi nghe tiếng hát của một cậu bé trai 2 tuổi trên YouTube. Chắc chắn YouTube này đã được thực hiện ở hải ngoại. Nếu ở trong cái nước cộng hòa XHCN Việt nam thì người thân hay có lẽ chính cậu bé này cũng bị tù rục xương thôi. Trong YouTube, người ta thấy cậu bé hát theo một cuốn băng ghi sẵn. Có lúc cậu bé cũng vò đầu, bứt tóc và gào thét như thể để bày tỏ những cảm xúc và sự phẫn nộ của mình.
Tuổi thơ quả là tuổi đặt những câu hỏi và thường là những câu hỏi mà người lớn hoặc không thể trả lời, không muốn trả lời hoặc muốn tránh né. Trên môi miệng của trẻ thơ, “Anh là ai,  sao đánh tôi không một chút nương tay” quả là một câu hỏi nhức nhối. Câu hỏi ấy nhức nhối là bởi vì xuất phát từ chính hiện thân của sự trong trắng, ngây thơ, hồn nhiên, lương thiện và của chính lương tri con người.
Dĩ nhiên, câu hỏi ấy trước tiên được đặt ra cho những người công an trong chế độ cộng sản Việt nam. Trong bài bình luận với tựa đề “Chế độ lấy ghế che mặt”, đăng trên báo Người Việt hôm 17 tháng 2 vừa qua, nhà báo Ngô Nhân Dụng đã ghi lại “cảnh một anh công an chìm nâng chiếc ghế lên mặt khi kỹ sư Đỗ Nam Hải đưa tay chụp hình khiến người coi phải động lòng trắc ẩn. Nó chứng tỏ người công an này biết xấu hổ”. Theo ông, “ghế là đồ dùng để ngồi lên, đem ghế che mặt là vạn bất đắc dĩ, cũng không khác gì lấy cái đũng quần mà che lên mặt. Mạnh Tử coi tính biết xấu hổ là một dấu hiệu của tính Thiện bẩm sinh trong mỗi người. Biết xấu hổ là một trong bốn đầu mối của các đức tính Nhân Nghĩa Lễ Trí”.
Ở Việt nam ngày nay, có lẽ cũng còn có những người công an biết xấu hổ như anh công an chìm lấy ghế che mặt trên đây. Thật ra, họ cũng chỉ là những công cụ của chế độ. Có người vì một chút bã vinh hoa. Có người vì chén cơm manh áo. Họ cũng là những con người đáng thương. Vì chấp nhận làm công cụ cho chế độ mà đành phải ra tay đàn áp, hãm hại những người đồng bào ruột thịt của mình. Thời buổi mà có lẽ chẳng có chế độ nào còn có đủ phù phép để kiểm soát hoàn toàn hệ thống Internet, chắc chắc tiếng gào thét của cậu bé 2 tuổi trong YouTube đã về tới Việt nam và cũng đã được chính những người công an lắng nghe. Mong họ cũng còn có đủ tỉnh táo để cho tiếng gào thét ấy đi sâu vào lương tri và nhận biết mình là ai đối với người đồng bào ruột thịt của mình.
Liệu tiếng gào thét của cậu bé 2 tuổi trên đây có thấu đến tai của những “thượng đế” nắm quyền sinh sát trong đất nước Việt nam ngày nay không? Tôi tin chắc là họ đã nghe được tiếng gào thét ấy.
“Xin hỏi anh là ai, sao bắt tôi, tôi làm điều gì sai.
Xin hỏi anh là ai, sao đánh tôi, chẳng một chút nương tay.
Xin hỏi anh là ai, không cho tôi xuống đường để tỏ bày?” Nhưng câu hỏi như thế không phải chỉ dành cho những người công an ra tay hành hạ đồng bào ruột thịt của mình như những cái máy, mà chính là được nhắn gởi đến những ông Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng...và cái nhóm 13 người trong ban bí thư Trung ương Đảng, những người đang tự cho mình có quyền sinh sát đối với cả dân tộc.
Vua Louis XIV của Pháp vào thế kỷ thứ 17, người thường được hay tự mệnh danh là “ông vua mặt trời” (Roi soleil) đã từng vỗ ngực tuyên bố: “Nhà nước là chính Ta” (l’Etat c’est moi). Ông dám tuyên bố như thế vì cho rằng quyền lực của ông do Thượng Đế ủy thác. Do đó, hễ ông muốn là Trời muốn. Mà đã Trời muốn thì thần dân phải cúi đầu vâng phục, ngay cả khi phải gánh chịu bất công và cái chết.
Ở thế kỷ 21, trong khi hầu hết các nước trên thế giới đều theo thể chế dân chủ, những ông vua cộng sản Việt nam có lẽ vẫn còn muốn sống ở thế kỷ 17 khi không ngừng đưa ra những lời tuyên bố tương tự. Chính vì “tổ quốc là Đảng, Nhà nước là Đảng”, mà Đảng là một nhóm nhỏ những người thu tóm mọi quyền lực và của cải trong tay, cho nên người dân bị đối xử chẳng khác nào đàn cừu trong tay của thiểu số đó. Tựu trung, Đảng chẳng khác gì một thứ “Thượng Đế” của cả dân tộc.
“Anh là ai?” Giả như những Nguyễn Phú Trọng, những Nguyễn Tấn Dũng...biết lắng nghe tiếng gào thét của cậu bé 2 tuổi, để cho tiếng nói của lương thiện, của lương tri, của Tính Thiện bẩm sinh trong trái tim được dâng trào, thì có lẽ họ sẽ không còn tiếp tục đối xử với người đồng bào của mình như thế nữa.
Đã làm người thì một lúc nào đó trong đời, ai cũng phải tự hỏi: “Tôi là ai?” trong tương quan với người đồng bào và đồng loại của mình. “Tôi là ai?” để xem người khác như thú vật, cỏ cây? “Tôi là ai?” để chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác, để chà đạp phẩm giá của người khác? “Tôi là ai?” để thu tóm mọi quyền lực, của cải và có thể tỏ ra vô cảm, vô tâm trước nỗi khổ đau của người đồng loại? “Tôi là ai?” để có thể ngồi trên nỗi khổ đau của người khác mà vui hưởng cuộc sống?
Cách chúng ta trên hai mươi mấy thế kỷ, ở mặt tiền của Đền thờ thần Apollo ở Delphi, người Hy lạp đã biết nhắc nhở những người qua đường: “Hãy tự biết mình”. Lời khuyên này đã trở thành khởi đầu của minh triết đối với nhiều nhà hiền triết Hy lạp và quyết tâm thay đổi cuộc sống của nhiều người. Trong các thứ hiểu biết, thì biết mình vẫn là điều quan trọng nhất. Ngay cả biết mình ngu dốt cũng đã là một sự hiểu biết cao siêu nhất.
Nhưng có lẽ tôi sẽ không biết tôi là ai nếu không đặt mình vào tương quan với người khác.
Trong cuốn sách “Wer bin Ich? Wenn ja, dann wieviel? Eine kleine Reise in die Philosophie” (Tôi là ai? Nếu đúng là tôi, thì có mấy tôi? Một cuộc du ngoạn vào Triết học, bản dịch của Phạm Hồng Lam), tác giả người Đức Richard David Precht, kể lại rằng trong một đài phát thanh mà ông thỉnh thoảng đến cộng tác, có một bà giữ cửa luôn có vẻ mặt hốc hác. Bà nổi tiếng về thái độ bất thân thiện của mình. Thay vì tỏ ra vui vẻ và dễ tính, bà làm cho mọi người khó chịu vì tính bướng bỉnh của bà. Nhưng ông Precht nói rằng mỗi khi thấy đứa con trai nhỏ của ông thì bà hoàn toàn thay đổi thái độ. Mắt bà long lanh, khuôn mặt bà rạng rỡ. Bà ôm lấy đứa bé hôn lấy hôn để. Xem ra không gì có thể cản được niềm vui của bà khi nhìn thấy đứa bé. Khi ông và đứa bé ra về, hạnh phúc vẫn còn tràn ngập trong con người bà. Theo ông, người đàn bà này hẳn phải là một người rất cô đơn, vì không có bạn bè và người quen xung quanh.
Tác giả liên tưởng tới triết gia Pháp Jean Jacques Rousseau. Ông triết gia sống vào giữa thế kỷ 18 này cho rằng con người tự bản chất hoàn toàn là tốt, nhưng bị văn minh, khoa học và xã hội làm cho ra đồi bại. Có lẽ do chủ trương đó mà ông sinh con đẻ cái một cách bừa bãi, bỏ rơi chúng hay đưa chúng vào các viện mồ côi và tự giam mình trong một lâu đài để gậm nhấm cô đơn, thất vọng, buồn phiền và cay đắng.
Theo tác giả, “sẵn sàng trao đổi với người khác và lo lắng cho người khác là lối thoát ra khỏi sự tự giới hạn của mình. Làm một cái gì cho tha nhân là điều quan trọng cho tâm linh của mình. Chẳng hạn đi tìm một món quà đẹp và thấy ra được niềm vui của người nhận quà, người đó đồng thời cũng đang tặng quà cho chính mình”.
“Anh là ai?”  Câu hỏi của Việt Khang có lẽ không chỉ dành cho những người cộng sản Việt nam. Tôi cảm thấy chính mình cũng bị tra vấn. Tôi sẽ là gì? Tôi có còn là con người không, tôi có còn là tôi không nếu tôi không nhìn nhận, tôn trọng, yêu thương và sống cho người khác?
Tự nhiên, tôi nghe vang vọng đâu đó lời kêu gọi của cố nhạc sĩ Lê Hựu Hà: “Tôi muốn mọi người biết thương nhau. Không oán ghét không gây hận sầu.”












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét