Chu Thập
25.9.15
Có lần, trong lúc trà dư tửu hậu, vợ chồng một người bạn đã thăm dò “chính
kiến” của tôi. Họ hỏi tôi ủng hộ Đảng nào ở Úc Đại Lợi này. Chính trị vốn là một
đề tài dễ gây tranh cãi và ngay cả chia rẽ. Trong gia đình hay quan hệ bạn bè,
chỉ vì khác chính kiến mà người ta có thể phùng mang trợn mắt để ăn thua đủ với
nhau. Biết như vậy, cho nên khi được hỏi về quan điểm của mình đối với chính
trường Úc, tôi đã chọn thái độ “ba phải” và trả lời hàng hai: “chính phủ nào biết
lo cho dân thì tôi ủng hộ”.
Thật ra, kể từ lúc được làm công dân Úc, tôi thấy mình chẳng dứt khoát đứng
về bên nào cả. Là một người tỵ nạn cộng sản, tôi chỉ có một chọn lựa: không đội
trời chung với cộng sản! Nhưng trong thế giới tự do, như ở Úc Đại Lợi này, ranh
giới trong sinh hoạt chính trị, đối với cá nhân tôi, lúc nào cũng lu mờ. Đang đứng
bên này, tôi bước sang bên kia lúc nào không hay biết. Chẳng hạn, dưới thời ông
Kevin Rudd làm thủ tướng, được ổng tặng không 14 ngàn khi mua căn nhà đầu tiên,
được ổng khuyến khích gắn hệ thống năng lượng mặt trời để không những tiêu dùng mà còn dư để bán lại
cho nhà nước, được ổng tặng không cho một bình chứa nước mưa thật lớn để tiết kiệm nước, được xài nước nóng thả cửa
cũng nhờ năng lượng mặt trời...một người không có những suy nghĩ sâu xa về
chính trị như tôi làm sao không bỏ phiếu cho Lao Động.
Nhưng sau khi bà Julia Gillard đâm sau lưng ông Kevin Rudd, rồi ông Rudd trở
lại “chém” bà Gillard, trước cảnh bát nháo
của Lao Động, tôi đã trở cờ để ủng hộ Liên Đảng. Vậy mà liền sau đó, khi
Chính phủ Tony Abbott công bố Ngân sách đầu tiên với đủ thứ
cắt giảm, tôi cảm thấy thất vọng về chính phủ này. Nay sau khi ông Malcolm
Turnbull lật đổ ông Tony Abbott, tình hình chính trị và kinh tế của Úc xem ra
khả quan hơn, đồng Úc kim có nhích lên một chút, tôi thấy “niềm tin” mà tôi đã
đặt nơi chính phủ Liên Đảng cũng có phần đi lên. Nhưng từ nay cho đến ngày bầu
cử liên bang vào tháng 9 năm tới, ngọn gió chính trị trong tôi biết đâu lại chẳng
đổi chiều. Nhiều lần, vào giờ phút cuối, khi bước vào phòng phiếu, đứng một
mình với lá phiếu trên tay, ngẩn ngơ một lúc, tôi đã xoay 180 độ lúc nào không
hay biết!
Hầu như chính trị gia nào cũng đều nhìn nhận rằng chính trị là một trò chơi
và là một trò chơi tàn bạo. Cứ nhìn cảnh bà Gillard đâm sau lưng ông Rudd thì
rõ. Cứ nhìn cảnh bà đương kim bộ trưởng ngoại giao Julie Bishop đánh đu từ giây
này sang giây khác để bám trụ mãi vào chức phó “thống soái” của Đảng Tự Do thì
rõ. Cứ nghe giọng điệu đắng cay chua xót của ông Abbott khi nói về sự phản
thùng của ông Scott Morrison thì rõ.
Tuy không gia nhập đảng phái nào và cũng chẳng bao giờ có tham vọng làm
chính trị, nhưng tôi cũng thấy mình đang “làm chính trị” và cũng xem chính trị
như một trò chơi. Dĩ nhiên, một trò chơi thú vị. Bởi lẽ, tôi đang cầm lá phiếu
trong tay và tôi biết rằng chính trường Úc tùy thuộc vào lá phiếu của tôi. Những
năm sống dưới chế độ cộng sản, vì không có chứng minh nhân dân cho nên tôi được
“miễn” đi bầu. Vượt biên là một cách bỏ phiếu và không cầm lá phiếu trong tay
cũng là một cách bỏ phiếu. Lá phiếu vô hình của tôi cũng có giá trị của một lời
tố cáo về một chế độ không có tự do bầu cử, không có tự do bày tỏ lập trường
chính trị của mình.
Ở Úc Đại Lợi này, sự kiện tôi thay đổi như chong chóng khi sử dụng lá phiếu
của mình cho thấy tôi là một công dân có tự do. Và tự do đối với một người tỵ nạn
như tôi chính là lẽ sống. Làn sóng người tầm trú từ Trung Đông và Phi Châu ồ ạt
đổ vào Âu Châu hiện
nay không thể không gợi lại thảm trạng của người Việt tỵ nạn
sau năm 1975. Ra đi để có một cuộc sống tốt đẹp hơn đã đành, người Việt tỵ nạn
nào cũng liều mạng sống mình vì hai chữ “tự do”. Có tự do là có tất cả. Nhìn lại
cảm xúc của mình khi được vớt lên giàn khoan dầu trong biển Nam Dương và nhứt
là khi đặt chân vào trại tỵ nạn, vốn chỉ mới là “ngưỡng cửa của tự do”, tôi thấy
mình đã thực sự tìm được một quê hương mới. Dĩ nhiên, quê hương Việt Nam, người
Việt tỵ nạn nào cũng mang theo và trân trọng cất giữ trong lòng. Nhưng tự do
cũng đã mở ra cho họ một quê hương mới. Tôi hiểu được tâm trạng của Blogger Tạ
Phong Tần khi vừa đặt chân đến Hoa Kỳ.
Sau 4 năm bị giam tù vì đã đồng sáng lập “Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do” để tranh đấu
cho tự do báo chí, bà Tạ Phong Tần đã được chính phủ Mỹ can thiệp để được rời
khỏi Việt Nam và định cư tại Hoa Kỳ. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Người
Việt, bà nói: “Tôi cảm thấy nơi đây là
nhà của mình”
(Người Việt online 22/9/2015).
Tôi không biết khi nói đến “nhà của
mình”, bà Tạ Phong Tần có liên tưởng đến chữ “home” trong Anh Ngữ không. Ở Úc này, vào một nhà nào, được chủ nhà
mời hãy “cảm thấy như nhà mình” (feel at
home), điều đó có nghĩa là mình có quyền cảm thấy thoải mái như ở nhà mình. Thoải
mái hay bình an đó là cảm xúc đầu tiên mà “nhà của mình” luôn gợi lên. Ai đó đã
có lý để định nghĩa “lòng mình ở đâu thì nhà mình ở đó” ( home is where the heart is). Và dĩ nhiên, không đâu mình thích cho bằng ngôi nhà của mình, bởi vì ở đó
mình mới thực sự cảm thấy thoải mái và tự do. Chính vì vậy mà bất cứ nơi nào
mình cảm thấy thoải mái và tự do thì đó là “nhà của mình”. Không chỉ các tù
nhân, cách riêng các tù nhân lương tâm, mà bất cứ người Việt nào khao khát tự
do cũng đều không thể cảm thấy thực sự thoải mái ở Việt Nam dưới chế độ cộng sản
ngày nay. Nhà cửa đất đai có thể bị cướp bất cứ lúc nào. Ở đâu cũng có thể bị
theo dõi và bị công an hay công an đội lớp côn đồ hành hung. Làm gì, nói gì
cũng đều có thể bị đưa từ khám đường lớn vào nhà tù nhỏ. Sống như thế, dù có
nhà cao cửa rộng và đầy đủ tiện nghi vật chất, không thể gọi là sống thoải mái
và tự do. Giờ đây tôi mới hiểu được tại sao khi mở chiến dịch tranh đấu cho tự
do tôn giáo và các quyền tự do căn bản của con người, linh mục Nguyễn Văn Lý đã
cho trương lên biểu ngữ: “Tự do hay là chết”. Đối với vị linh mục này, sống mà
không có tự do cũng đồng nghĩa với chết. Hình ảnh ông bị công an dùng tay khóa
cổ, bịt miệng ngay trong tòa án cũng đủ nói lên tại sao sống mà không có tự do
thì chẳng khác nào chết.
Cái cảm giác được ở trong “nhà của mình” mà bà Tạ Phong Tần vừa có được khi
đặt chân lên đất Mỹ, tôi cũng đã từng có được khi đặt chân đến đất nước đã đón
nhận mình, nhứt là Úc Đại Lợi này. Đây là quê hương thứ hai của tôi. Đây là
“nhà của tôi”. Đây là ngôi nhà lúc nào cũng mang lại cho tôi sự thoải mái và tự
do. Đó là điều quý giá nhứt mà tôi đã liều mạng sống để đi tìm cho bằng được.
Đó cũng là điều phải luôn luôn gợi lên cho tôi lòng biết ơn đối với đất nước
này.
Mới đây, ông bạn hiền của tôi có chuyển cho tôi một câu chuyện để nghiền ngẫm
về kiếp sống tỵ nạn. Đó là câu chuyện của một cặp vợ chồng già đã làm di chúc để
lại toàn bộ gia tài trị giá trên 800 triệu Mỹ kim của mình cho chính phủ Hoa Kỳ.
Hai ông bà là những người Do Thái mà thân nhân đều bị Đức Quốc Xã sát hại trong
thời Đệ Nhị Thế chiến. Theo câu chuyện, ông Peter Petrasek sinh năm
1920 tại Tiệp Khắc. Khi quân đội Đức xâm lăng nước này ông chỉ mới 12 tuổi. Chị
của ông chết vì trúng đạn pháo kích. Cha của ông bị bắt đưa vào trại tập trung
và bị giết chết tại đây. Mẹ của ông thì bị lưu lạc mất tích. Sống sót nhờ khỏe
mạnh, cậu thiếu niên được tuyển chọn vào một trại thiếu nhi để phục vụ cho quân
đội Đức. Khi quân đội Mỹ giải phóng trại tập trung, ông được hưởng qui chế tỵ nạn
và được đưa sang Mỹ. Tại đây, ông được một gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi.
Vợ ông, bà Joan, cũng là người Do Thái đến từ Ái Nhĩ Lan. Họ đã gặp nhau và làm
đám cưới tại Gia Nã Đại. Sau đó, bà theo ông về Mỹ. Năm 1998, bà bị ung thư. Biết
bà không qua khỏi, hai vợ chồng mới bàn đến việc làm di chúc. Trong di chúc,
hai ông bà đã cám ơn nước Mỹ vì đã cho họ cơ hội được sống một cuộc sống bình
an và tự do. Đây là điều mà họ biết không thể có được nếu sống trong một quốc
gia độc tài như Phát Xít hay Cộng Sản. Sau khi ông Peter qua đời, chính phủ đã
cử đại diện đến văn phòng luật sư của hai ông bà để nhận tấm ngân phiếu và chuyển
vào ngân khố quốc gia.
Câu chuyện trên đây quả thực đáng được
mang ra nghiền ngẫm. Nó làm cho tôi nhớ lại bài diễn văn nhậm chức của cố Tổng thống John F. Kennedy dạo tháng Giêng năm 1961. Ông đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
nghĩa vụ công dân như sau: “Đừng hỏi đất nước của bạn có thể làm gì cho bạn, mà
hãy tự hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước của bạn”. Lời kêu gọi này không chỉ
nhắm đến công dân Mỹ, mà còn có giá trị cho bất cứ công dân của một nước nào
trên thế giới này. Với người tỵ nạn là người đã được một đất nước tự do mở rộng
vòng tay để đón nhận và cho được hưởng tự do, lời kêu gọi này lại càng có giá
trị hơn.
Tự do là món quà cao quý nhứt mà đất nước tự do đã dành cho người tỵ nạn.
Nhưng nói đến tự do là nói đến trách nhiệm. Tri ân đất nước đã cưu mang mình là
một trong những tâm tình phải đạo hơn cả. Và một trong những thể hiện của lòng
biết ơn chính là sống như một người công dân có trách nhiệm. Trách nhiệm trong
việc sử dụng lá phiếu của mình vài năm một lần đã đành. Nhưng quan trọng hơn cả
chính là biết tôn trọng luật pháp và góp phần xây dựng công ích trong cuộc sống
hàng ngày.
Sau hơn nửa đời người sống kiếp tỵ nạn, có một bài học “làm người” mà tôi
cho là cần thiết hơn cả, đó là cố gắng vượt qua được não trạng xem mọi sự như
“của chùa” hoặc “cha chung không ai khóc”. Trước một viện dưỡng lão ở Hornsby,
Bắc Sydney, hầu như sáng Chúa nhựt nào tôi cũng thấy có một cụ bà âm thầm đi nhặt
rác trên những lối đi xung quanh viện dưỡng lão. Lúc nào tôi cũng đến nhà thờ với
hình ảnh ấy và tự nhủ: đây mới thực sự là “đi đạo”. Nghĩ đến lợi ích chung, âm
thầm làm những việc không ai màng tới, cũng chẳng ai biết tới...không phải là
thực thi trách nhiệm công dân và nhứt là “đi đạo” thì còn là gì?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét