Chu Thập
1.10.15

Sinh năm 1479, Mona Lisa có tên là Lisa Gherardini. Bà là vợ của một nhà
buôn tơ lụa tên là Francesco del Giocondo. Chính người đàn ông này đã nhờ danh
họa Da Vinci vẽ bức chân dung cho vợ mình năm 1503. Sau khi chồng
chết, bà Gheradini đã sống những năm cuối đời trong một tu viện tại Fiorenza và
qua đời tại đó năm 1542. Nếu quả thực mảnh xương vừa
mới được tìm thấy đã được xác nhận là của bà Mona Lisa, nó sẽ góp phần soi sáng
cho bí ẩn của nụ cười của bà trong bức chân dung.
Thế giới vẫn tiếp tục bị thu hút bởi nụ cười của bà Mona Lisa. Riêng tôi
thì lại bị ám ảnh bởi một nụ cười thoạt nhìn cũng chẳng khác nụ cười của bà
Mona Lisa bao nhiêu: đó là nụ cười của đương kim Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Năm 2012, khi ông mới “lên ngôi” trong đế
quốc đỏ Trung Cộng, nhìn ông cười, tôi cứ liên tưởng đến nụ cười bí ẩn, nhưng
hiền hậu của bà Mona Lisa. Nhưng nay, với tôi, mọi sự đều sáng tỏ: nụ cười của ông chỉ là một nụ cười đểu giả!

Có lẽ chỉ có người Việt Nam mới thực sự thấy được sự đểu giả trong nụ cười
của ông Tập Cận Bình. Đằng sau nụ cười “Mona Lisa” của ông là cả một trời tham
vọng bá quyền, mưu mô, đểu giả và độc ác mà câu nói bất hủ của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu “đừng nghe những gì cộng sản
nói mà hãy nhìn kỹ
những gì cộng sản làm” đã lột trần.

Nụ cười đôn hậu và chân thật của vị giáo hoàng này không thể không làm tôi
liên tưởng đến một câu nói trịch thượng của đồ tể Stalin (1878-1953). Trong hồi ký của ông, người thông dịch của
Stalin là ông Valentin Berezhkov, có kể lại rằng năm 1944, trong một cuộc gặp gỡ với Stalin, thủ tướng
Anh, ông Winston Churchill (1874-1965)
có đề cập đến tầm quan trọng của tình hữu nghị giữa Ba Lan và Liên Xô. Ông cũng
nhắc lại rằng Ba Lan là một quốc gia toàn tòng công giáo. Ông cho biết Anh Quốc
cảm thấy có trách nhiệm tinh thần đối với dân tộc Ba Lan và những giá trị tinh
thần của họ. Có lẽ Thủ tướng Churchill chỉ muốn khuyên Stalin đừng chèn ép Ba
Lan để tránh không làm cho các mối quan hệ với tòa thánh Vatican trở nên rắc rối.
Nhưng bất thần Stalin ngắt lời thủ tướng Anh và hỏi: “Giáo hoàng Roma có bao
nhiêu sư đoàn?” Thủ tướng Churchill bị cụt hứng. Ông không bao giờ chờ đợi một
câu hỏi trịch thượng như thế. Ông chỉ muốn nhấn mạnh đến ảnh hưởng tinh thần của
nhà lãnh đạo công giáo đối với thế giới mà thôi. Nhưng Stalin thì trái lại chỉ
biết có mỗi một sức mạnh: đó là sức mạnh của lò thuốc súng như đồ tể Mao Trạch
Đông cũng đã từng khẳng định.
Quả thật, nhà lãnh đạo công giáo hoàn vũ không có trong tay bất kỳ vũ khí
nào. Vài ba anh vệ binh Thụy Sĩ đứng làm cảnh trong tòa thánh Vatican và trong
những lễ nghi của giáo triều cũng chẳng có trong tay một khẩu súng hay một viên
đạn. Nhưng thế giới không thể phủ nhận ảnh hưởng tinh thần của vị giáo hoàng.
Năm 1978, hai nước láng giềng Chile và Argentina ở Châu Mỹ La Tinh đã đứng bên
bờ vực của chiến tranh vì tranh chấp biên giới. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II
đã cử một vị đại diện đến làm trung gian hòa giải giữa hai nước. Hai nước đã đồng
ý ký thỏa ước và từ bỏ việc sử dụng võ khí. Mới
đây, khi Cuba và Hoa Kỳ tái lập quan hệ ngoại giao sau hơn 50 năm đoạn tuyệt,
người ta cũng đã nói nhiều đến hoạt động trung gian của tòa thánh Vatican, cách
riêng của Đức Phanxicô
Đứng trước xung đột có thể dẫn đến chiến tranh, thế giới vẫn có thể có được
hòa bình nhờ đối thoại và hòa giải mà không cần phải sử dụng khí giới. Đó là điều mà các nhà lãnh đạo tinh thần
của Giáo hội Công giáo không ngừng lập lại. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ hồi
tuần trước, thông điệp mà Đức Phanxicô đã nhắn gởi cho người Mỹ và toàn thế giới
xem ra cũng chẳng có gì mới mẻ. Kêu gọi bảo vệ
môi sinh, giảm bớt khoảng cách giữa giàu nghèo bằng sự chia sẻ, tôn trọng những
thành phần yếu đuối dễ bị tổn thương nhứt trong xã hội, mở rộng vòng tay đón nhận
người tỵ nạn, hoặc bảo tồn định chế hôn nhân truyền thống...ngài cũng chỉ lập lại
những điều căn bản trong Tin Mừng của Chúa Giê Su mà thôi.
Theo dõi chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua của Đức Phanxicô, tôi có nghe nói
ngài đã được chính ông chủ tịch Hạ Viện Mỹ John Boehner mời đến đọc diễn văn tại
Quốc Hội. Đây là lần đầu tiên một vị giáo hoàng được dành cho vinh dự này. Tôi
cũng biết ngài đã đọc diễn văn trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Đó là những
biến cố quan trọng nói lên vị trí và ảnh hưởng tinh thần của ngài trong thế giới
ngày nay. Nhưng thú thật, tôi chưa nghe trọn một bài diễn văn nào của ngài. Điều
đập vào mắt tôi nhiều nhứt chính là hình ảnh của chiếc xe Fiat nhỏ bé và khiêm
tốn trên đó ngài đã di chuyển trong những ngày vừa qua. Chắc chắn đây chỉ có thể
là một quyết định riêng của ngài. Cuộc sống khiêm tốn từ thời còn làm tổng giám
mục ở Buenos Aires bên Argentina vẫn được ngài tiếp tục sống ngay cả khi được
ngồi trên điều mà người ta thường gọi là “ngai tòa” giáo hoàng ở Roma. Hình ảnh
của chiếc xe nhỏ bé và nhứt là nụ cười, những cử chỉ thân ái và nhân ái của
ngài là những gì đã đánh động tôi nhứt trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua của
ngài.
Rõ ràng là Đức Phanxicô không “giảng” bằng lời nói, mà bằng cả cuộc sống của
ngài. Với tựa đề “Pope Francis remakes the Vatican” (Giáo hoàng Phanxicô cải tổ tòa thánh Vatican), nguyệt
san “National Geographic”, số ra tháng 8 vừa qua, đã nhấn mạnh đến cuộc sống
khiêm tốn, bình dị và nhân ái của ngài.
Tuần báo Time trong hai số ra ngày 28 tháng 9 và 5 tháng 10 cũng đã in hình
của ngài ở trang bìa và dành trang chủ để nói về ảnh hưởng của ngài trên thế giới
ngày nay. “Giáo hoàng Roma có bao nhiêu sư đoàn?” Ngày nay nếu có đội mồ sống lại
để đặt lại câu hỏi này, có lẽ đồ tể Stalin sẽ có được câu trả lời. Đức Phanxicô
chẳng có quân đội. Ngay cả “âm binh”, ngài cũng chẳng có. Có chăng là nụ cười
đôn hậu, cuộc sống khiêm tốn và những cử chỉ thân ái và nhân ái của ngài.
Xét cho cùng, những vị giáo hoàng được thế giới, chớ không riêng gì người
công giáo kính trọng và yêu mến nhiều nhứt, không hẳn là những vị tài cao học rộng,
mà là những vị có cuộc sống khiêm tốn và nhứt là nụ cười nhân ái như Đức Gioan
23, như Đức Gioan Phaolô I và hiện nay Đức Phanxicô.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10 tháng 9 nêu lên ở trang bìa một câu hỏi ngộ
nghĩnh: “Is the Pope Catholic?” (Giáo hoàng có phải là người công giáo không?) Không là công giáo thì là gì? Cũng như hầu hết
các vị tiền nhiệm của ngài, Đức Phanxicô, về mặt giáo lý, cũng được nhiều nhà
quan sát xếp vào hạng “bảo thủ”. Có khác chăng là ngài đã dám đi ra ngoài
“khuôn phép” để sống cho đến cùng niềm xác tín của ngài là để sống triệt để như
một người công giáo, cần phải khiêm tốn, nhân hậu, cảm thông.
“Giáo hoàng có phải là người công giáo không?” đặt câu hỏi như thế cũng có
nghĩa là trở về với cốt lõi của Tin Mừng của Chúa Giê Su. Cốt lõi đó chính là
khiêm tốn, yêu thương, phục vụ, cảm thông và quên mình.
Qua nụ cười và cuộc sống của ngài, Đức Phanxicô có lẽ cũng muốn nhắn gởi với
thế giới cùng một thông điệp mà nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt
Ma, người cũng “thuyết pháp” bằng nụ cười và cuộc sống hơn là bằng lời nói, đã
từng truyền đạt: đạo của tôi là đạo tử tế!
Ai đó đã nói: nụ cười là khoảng cách ngắn nhứt giữa hai trái tim. Người ta
có thể đố kỵ và ngay cả thù nghịch nhau vì chính kiến và nhứt là vì tôn giáo.
Nhưng một khi nụ cười đôn hậu, thân ái và nhân ái đã nở ra trên môi thì chắc chắn
khoảng cách nào cũng có thể được rút ngắn và ngay cả xóa bỏ. Đó là “tín điều”
quan trọng nhứt của tôi. Chỉ khi nào tín điều ấy được tuyên xưng qua cuộc sống
hàng ngày của tôi thì lúc đó tôi mới dám tự nhận mình là người “có đạo” và “đi
đạo”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét