Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

Nụ cười chân thật



Chu Thập
1.10.15
Mới đây, các nhà khảo cổ Ý cho biết đã tìm thấy xương của bà Mona Lisa La Gioconda, người phụ nữ đã từng làm người mẫu để danh họa Leonardo Da Vinci (1452-1519) vẽ bức chân dung nổi tiếng “La Gioconda” hiện được trưng bày tại bảo tàng viện Louvre ở Paris, Pháp Quốc. Sau nhiều năm nghiên cứu về một số bộ xương được tìm thấy tại Tuscania, họ chỉ có được một mnh xương đùi mà họ tin là của bà Mona Lisa.
Sinh năm 1479, Mona Lisa có tên là Lisa Gherardini. Bà là vợ của một nhà buôn tơ lụa tên là Francesco del Giocondo. Chính người đàn ông này đã nhờ danh họa Da Vinci vẽ bức chân dung cho vợ mình năm 1503. Sau khi chồng chết, bà Gheradini đã sống những năm cuối đời trong một tu viện tại Fiorenza và qua đời tại đó năm 1542. Nếu quả thực mnh xương vừa mới được tìm thấy đã được xác nhận là của bà Mona Lisa, nó sẽ góp phần soi sáng cho bí ẩn của nụ cười của bà trong bức chân dung.
Thế giới vẫn tiếp tục bị thu hút bởi nụ cười của bà Mona Lisa. Riêng tôi thì lại bị ám ảnh bởi một nụ cười thoạt nhìn cũng chẳng khác nụ cười của bà Mona Lisa bao nhiêu: đó là nụ cười của đương kim Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Năm 2012, khi ông mới “lên ngôi” trong đế quốc đỏ Trung Cộng, nhìn ông cười, tôi cứ liên tưởng đến nụ cười bí ẩn, nhưng hiền hậu của bà Mona Lisa. Nhưng nay, với tôi, mọi sự đều sáng tỏ: nụ cười của ông chỉ là một nụ cười đểu giả!
Tuần qua,  khắp nước Mỹ, đi đâu ông cũng biểu diễn nụ cười ấy. Nhưng có lẽ thế giới không còn dễ bị dụ dỗ vì nụ cười ấy nữa. Người ta đã thấy được bộ mặt thật của ông trong cuộc diễu võ dương oai dạo đầu tháng 9 vừa qua khi Đảng cộng sản Trung Quốc cướp công của cố Tổng thống Tưởng Giới Thạch (1887-1975) để tổ chức mừng kỷ niệm 70 năm chiến thắng quân phiệt Nhựt Bổn. Trong bộ áo đại cán, đứng trên cao  nhìn xuống Quảng trường Thiên An Môn, nơi đã từng có hàng ngàn người dân vô tội bị quân đội tàn sát ngày 4 tháng 6 năm 1989 hoặc đứng trên xe để đi duyệt binh, ông Tập Cận Bình đã xuất hiện với một mặt bộ lạnh như tiền. Ông muốn cho người dân trong nước và cả thế giới thấy được sức mạnh của một quân đội hùng mạnh và kho võ khí ông đang có trong tay. Với khuôn mặt lạnh lùng ấy, ông muốn cho thế giới, nhứt là Việt Nam, thấy được nanh vuốt ông đã giương ra ở Biển Đông. Đây là điều mà ông đã ngang nhiên tái khẳng định trong một cuộc phỏng vấn tại Mỹ. Giọng điệu của ông phải thật đểu giả và gian dối một cách trắng trợn khi ông tuyên bố với phóng viên của báo The Wall Street Journal: “Từ thời xa xưa (ancient times) Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam) đã thuộc địa phận Trung Quốc, theo các bằng chứng lịch sử và pháp lý”.  Năm 1974, quân đội Trung Quốc đã tấn công và đánh chiếm Hoàng Sa và năm 1988, nuốt luôn đảo Gạc Ma: đây là bằng chứng lịch sử rõ ràng nhứt cho thấy Trường Sa không bao giờ thuộc địa phận Trung Quốc, mà đã bị nước này “ăn cướp” của Việt Nam. Còn bằng chứng pháp lý ư? Ông Tập Cận Bình quên mất rằng sau ĐNhị thế chiến, thủ tướng chính phủ Việt Nam lúc đó là ông Trần Văn Hữu đã tuyên bố rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam mà không gặp phản đối của bất cứ một quốc gia.
Có lẽ chỉ có người Việt Nam mới thực sự thấy được sự đểu giả trong nụ cười của ông Tập Cận Bình. Đằng sau nụ cười “Mona Lisa” của ông là cả một trời tham vọng bá quyền, mưu mô, đểu giả và độc ác mà câu nói bất hủ của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu “đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” đã lột trần.
Sở dĩ tôi nhắc đến nụ cười đểu giả của ông Tập Cận Bình là bởi vì trong tuần qua, cùng với ông, Hoa Kỳ cũng đã đón tiếp một vị thượng khách mà nhân cách hoàn toàn được gói trọn trong nụ cười: Đức giáo hoàng Phanxicô! Người dân Mỹ có thể không nhớ hoặc cũng chẳng cần phải nhớ những gì vị giáo hoàng này đã nói. Nhưng chắc chắc họ không thể quên được nụ cười và cử chỉ khiêm tốn, nhân ái, đôn hậu và cảm thông của ngài trong suốt tuần lễ qua. Đó là sức mạnh đích thực của một nhà lãnh đạo tinh thần.
Nụ cười đôn hậu và chân thật của vị giáo hoàng này không thể không làm tôi liên tưởng đến một câu nói trịch thượng của đồ tể Stalin (1878-1953). Trong hồi ký của ông, người thông dịch của Stalin là ông Valentin Berezhkov, có kể lại rằng năm 1944, trong một cuộc gặp gỡ với Stalin, thủ tướng Anh, ông Winston Churchill (1874-1965) có đề cập đến tầm quan trọng của tình hữu nghị giữa Ba Lan và Liên Xô. Ông cũng nhắc lại rằng Ba Lan là một quốc gia toàn tòng công giáo. Ông cho biết Anh Quốc cảm thấy có trách nhiệm tinh thần đối với dân tộc Ba Lan và những giá trị tinh thần của họ. Có lẽ Thủ tướng Churchill chỉ muốn khuyên Stalin đừng chèn ép Ba Lan để tránh không làm cho các mối quan hệ với tòa thánh Vatican trở nên rắc rối. Nhưng bất thần Stalin ngắt lời thủ tướng Anh và hỏi: “Giáo hoàng Roma có bao nhiêu sư đoàn?” Thủ tướng Churchill bị cụt hứng. Ông không bao giờ chờ đợi một câu hỏi trịch thượng như thế. Ông chỉ muốn nhấn mạnh đến ảnh hưởng tinh thần của nhà lãnh đạo công giáo đối với thế giới mà thôi. Nhưng Stalin thì trái lại chỉ biết có mỗi một sức mạnh: đó là sức mạnh của lò thuốc súng như đồ tể Mao Trạch Đông cũng đã từng khẳng định.
Quả thật, nhà lãnh đạo công giáo hoàn vũ không có trong tay bất kỳ vũ khí nào. Vài ba anh vệ binh Thụy Sĩ đứng làm cảnh trong tòa thánh Vatican và trong những lễ nghi của giáo triều cũng chẳng có trong tay một khẩu súng hay một viên đạn. Nhưng thế giới không thể phủ nhận ảnh hưởng tinh thần của vị giáo hoàng. Năm 1978, hai nước láng giềng Chile và Argentina ở Châu Mỹ La Tinh đã đứng bên bờ vực của chiến tranh vì tranh chấp biên giới. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã cử một vị đại diện đến làm trung gian hòa giải giữa hai nước. Hai nước đã đồng ý ký thỏa ước và từ bỏ việc sử dụng võ khí. Mới đây, khi Cuba và Hoa Kỳ tái lập quan hệ ngoại giao sau hơn 50 năm đoạn tuyệt, người ta cũng đã nói nhiều đến hoạt động trung gian của tòa thánh Vatican, cách riêng của Đức Phanxicô
Đứng trước xung đột có thể dẫn đến chiến tranh, thế giới vẫn có thể có được hòa bình nhờ đối thoại và hòa giải mà không cần phải sử dụng khí giới. Đó là điều mà các nhà lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo không ngừng lập lại. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ hồi tuần trước, thông điệp mà Đức Phanxicô đã nhắn gởi cho người Mỹ và toàn thế giới xem ra cũng chẳng có gì mới m. Kêu gọi bảo vệ môi sinh, giảm bớt khoảng cách giữa giàu nghèo bằng sự chia sẻ, tôn trọng những thành phần yếu đuối dễ bị tổn thương nhứt trong xã hội, mở rộng vòng tay đón nhận người tỵ nạn, hoặc bảo tồn định chế hôn nhân truyền thống...ngài cũng chỉ lập lại những điều căn bản trong Tin Mừng của Chúa Giê Su mà thôi.
Theo dõi chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua của Đức Phanxicô, tôi có nghe nói ngài đã được chính ông chủ tịch Hạ Viện Mỹ John Boehner mời đến đọc diễn văn tại Quốc Hội. Đây là lần đầu tiên một vị giáo hoàng được dành cho vinh dự này. Tôi cũng biết ngài đã đọc diễn văn trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Đó là những biến cố quan trọng nói lên vị trí và ảnh hưởng tinh thần của ngài trong thế giới ngày nay. Nhưng thú thật, tôi chưa nghe trọn một bài diễn văn nào của ngài. Điều đập vào mắt tôi nhiều nhứt chính là hình ảnh của chiếc xe Fiat nhỏ bé và khiêm tốn trên đó ngài đã di chuyển trong những ngày vừa qua. Chắc chắn đây chỉ có thể là một quyết định riêng của ngài. Cuộc sống khiêm tốn từ thời còn làm tổng giám mục ở Buenos Aires bên Argentina vẫn được ngài tiếp tục sống ngay cả khi được ngồi trên điều mà người ta thường gọi là “ngai tòa” giáo hoàng ở Roma. Hình ảnh của chiếc xe nhỏ bé và nhứt là nụ cười, những cử chỉ thân ái và nhân ái của ngài là những gì đã đánh động tôi nhứt trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua của ngài.
Rõ ràng là Đức Phanxicô không “giảng” bằng lời nói, mà bằng cả cuộc sống của ngài. Với tựa đề “Pope Francis remakes the Vatican” (Giáo hoàng Phanxicô cải tổ tòa thánh Vatican), nguyệt san “National Geographic”, số ra tháng 8 vừa qua, đã nhấn mạnh đến cuộc sống khiêm tốn, bình dị và nhân ái của ngài.
Tuần báo Time trong hai số ra ngày 28 tháng 9 và 5 tháng 10 cũng đã in hình của ngài ở trang bìa và dành trang chủ để nói về ảnh hưởng của ngài trên thế giới ngày nay. “Giáo hoàng Roma có bao nhiêu sư đoàn?” Ngày nay nếu có đội mồ sống lại để đặt lại câu hỏi này, có lẽ đồ tể Stalin sẽ có được câu trả lời. Đức Phanxicô chẳng có quân đội. Ngay cả “âm binh”, ngài cũng chẳng có. Có chăng là nụ cười đôn hậu, cuộc sống khiêm tốn và những cử chỉ thân ái và nhân ái của ngài.
Xét cho cùng, những vị giáo hoàng được thế giới, chớ không riêng gì người công giáo kính trọng và yêu mến nhiều nhứt, không hẳn là những vị tài cao học rộng, mà là những vị có cuộc sống khiêm tốn và nhứt là nụ cười nhân ái như Đức Gioan 23, như Đức Gioan Phaolô I và hiện nay Đức Phanxicô.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10 tháng 9 nêu lên ở trang bìa một câu hỏi ngộ nghĩnh: “Is the Pope Catholic?” (Giáo hoàng có phải là người công giáo không?)  Không là công giáo thì là gì? Cũng như hầu hết các vị tiền nhiệm của ngài, Đức Phanxicô, về mặt giáo lý, cũng được nhiều nhà quan sát xếp vào hạng “bảo thủ”. Có khác chăng là ngài đã dám đi ra ngoài “khuôn phép” để sống cho đến cùng niềm xác tín của ngài là để sống triệt để như một người công giáo, cần phải khiêm tốn, nhân hậu, cảm thông.
“Giáo hoàng có phải  là người  công giáo không?” đặt câu hỏi như thế cũng có nghĩa là trở về với cốt lõi của Tin Mừng của Chúa Giê Su. Cốt lõi đó chính là khiêm tốn, yêu thương, phục vụ, cảm thông và quên mình.
Qua nụ cười và cuộc sống của ngài, Đức Phanxicô có lẽ cũng muốn nhắn gởi với thế giới cùng một thông điệp mà nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, người cũng “thuyết pháp” bằng nụ cười và cuộc sống hơn là bằng lời nói, đã từng truyền đạt: đạo của tôi là đạo tử tế!
Ai đó đã nói: nụ cười là khoảng cách ngắn nhứt giữa hai trái tim. Người ta có thể đố kỵ và ngay cả thù nghịch nhau vì chính kiến và nhứt là vì tôn giáo. Nhưng một khi nụ cười đôn hậu, thân ái và nhân ái đã nở ra trên môi thì chắc chắn khoảng cách nào cũng có thể được rút ngắn và ngay cả xóa bỏ. Đó là “tín điều” quan trọng nhứt của tôi. Chỉ khi nào tín điều ấy được tuyên xưng qua cuộc sống hàng ngày của tôi thì lúc đó tôi mới dám tự nhận mình là người “có đạo” và “đi đạo”.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét