Chu Thập
8.2.12
Hôm thứ Ba 7 tháng 2 vừa qua, thế giới kỷ
niệm sinh nhựt thứ 200 của văn hào Anh Charles Dickens. Năm Dickens lên 12 tuổi,
cha ông, vì nợ nần chồng chất, phải bị giam tù. Dickens bị buộc phải làm việc
cho một xưởng xi giày để kiếm sống và giúp đỡ gia đình. Có lẽ nhờ trải qua một
tuổi thơ bất hạnh như thế mà ngòi bút của ông được tinh luyện để trở thành chứng
nhân của một xã hội đầy bất công, nhứt là đối với trẻ em.
Tôi chưa từng trải qua một tuổi thơ bất
hạnh đến nỗi phải đi làm để kiếm sống. Nhưng nhờ sống nơi miền quê nghèo, tôi
đã học được nhiều bài học không có trong sách vở. 6, 7 tuổi, tôi đã có thể mỗi chiều vác cần câu
ra bờ sông kiếm cá đủ cho bữa cơm chiều của cả gia đình. Ở tuổi đó, tôi đã biết
trồng cây ăn trái. Tôi cũng biết nuôi gà
để kiếm tiền sắm Tết.
Tôi thường tự hào về cái tuổi thơ “huy
hoàng” ấy, nhứt là khi so sánh với trẻ con Việt nam sống ở Úc đại lợi này.
Hè vừa rồi, một người bạn đưa cả gia
đình đến thăm tôi. Chúng tôi đưa nhau ra bờ biển gần nhà để ăn trưa và câu cá.
Cậu con trai 12 tuổi của người bạn đã trở thành một “đối tượng” quan sát,
nghiên cứu và suy nghĩ của tôi. Là một học sinh trường tuyển nổi tiếng “Sydney
Boys”, cậu thuộc loại trẻ em có I.Q (chỉ số thông minh) cao. Có trên tay một
Ipod thứ xịn, dường như cậu có thể trả lời cho bất cứ câu hỏi nào cần tra khảo
trên Internet. Nhưng đến khi ra biển, gặp một đàn vịt dạn dĩ đang ăn kề bên bàn
ăn của chúng tôi, tôi lại thấy cậu học
sinh xuất sắc này tỏ ra “lớ ngớ”. Tôi đoán cậu bé chắc chắn cũng có chút đỉnh
kiến thức về gia cầm, nhưng là thứ gia cầm cậu thấy trong sách vở, trên màn ảnh
truyền hình, trong siêu thị hay chỉ ngắm xa xa, chứ không phải nuôi trong nhà
hay có thể đến thật gần như ở công viên. Đây hẳn phải là lần đầu tiên cậu bé
thông minh này được tận mắt nhìn thấy một đàn vịt bằng xương bằng thịt, có lông
có cánh cho nên đã bỏ ăn để say mê theo dõi sinh hoạt của chúng.
Thái độ hơi “ngố” của cậu bé làm cho tôi
nhớ đến cậu con trai 22 tuổi của chúng tôi. Dịp đi Việt nam vừa qua, chúng tôi
tin tưởng trao phó nhà cửa, vườn tược và gia cầm cho cậu trông coi. Những “báo
cáo” của người sinh viên đã tốt nghiệp khoa báo chí, học năm cuối khoa luật
cũng như đã từng sống ở một số nước Âu châu, không thể không mang lại cho chúng
tôi nhiều trận cười. Trong một điện thư, cậu cho biết vì thấy khu gà vịt ở
không có nhiều ánh nắng, lâu ngày có thể bị “stress” cho nên cậu đã lùa cả đàn
ra ngoài trời cho chúng “tắm nắng” (?!). Tôi không biết đám gà vịt của chúng
tôi có thèm tắm nắng để có được làn da nhuộm nâu như mấy cô gái Úc không. Chỉ
có điều: sau một tháng đi nghỉ về, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là một
chị vịt đang ngậm trên mỏ một lá xà lách, đứng như trời trồng tròn mắt nhìn
chúng tôi như thể chúng tôi đã bất lịch sự vì “đến thăm” mà không báo trước. Đằng
sau là cả một “hội hè đình đám” trong vườn rau với vịt gà khắp nơi, rau cải te
tua lăn lóc. Đúng là “vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”. Nhìn mà thấy lòng tan nát
tả tơi không khác chi cảnh sân nhà.
Trong một “báo cáo” khác, người luật sư
tương lai than phiền rằng đang lo học thi mà có hôm anh đã phải mất quá nhiều
thì giờ và điên tiết lên vì chuyện một con vịt lớn (vịt cồ) cứ tìm cách cắn vào
đầu một con vịt nhỏ (vịt mái) và leo đè lên người nó. Anh cho biết đã phải nhiều
lần can thiệp để chấm dứt và ngăn ngừa cái cảnh “hiếp đáp” như thế.
Nghe người thanh niên Úc gốc Việt sắp sửa
ra đời hành nghề luật sư kể lại những lần đi “thực tế” ở cái vườn sau nhà như
thế, vợ chồng tôi chỉ biết ôm bụng cười. Nhiều người Việt nam trong nước cho rằng
trẻ con Việt nam sinh ra ở nước ngoài bị tiêm nhiễm lối sống “văn minh trụy lạc”,
không còn biết đến lễ giáo và đạo đức. Kỳ thực, tôi thấy nhiều trẻ em Úc gốc Việt
không chỉ giữ được truyền thống dân tộc, mà còn tỏ ra hồn nhiên, ngây thơ và nhứt
là chân thật hơn trẻ em trong nước. Trong những cuộc gặp gỡ thân tình giữa các
gia đình Việt nam, tôi thấy có những cô gái đã 17, 18 tuổi, gặp người lớn bạn của
cha mẹ vẫn khoanh tay cúi đầu chào một cách thật “dễ thương” như một đứa con
nít mới tập học lễ phép.
“Dễ thương” và cũng “đáng thương”. Tôi
thương cái cảnh trẻ em Việt nam tại Úc tất bật với đủ thứ sinh hoạt trong một
ngày sống: hết học ở trường, vừa về nhà lại bị cha mẹ chở đi học thêm; hết tiếng
Anh trong tuần lại đến tiếng Việt cuối tuần; hết thể dục thể thao ở trường lại
đến các lớp bơi, võ thuật..., phút nào còn sót thì chúi đầu vào màn hình phút
đó. Đi đâu cũng có cha mẹ kè kè bên cạnh.
Hôm đầu năm Âm lịch vừa rồi, tôi có đi
thăm một trại nuôi cá Barramundi ở Port Stephens, gần New Castle. Ra về, tự
nhiên tôi quyết định sẽ không ăn cá Barramundi nữa. Con gà công nghiệp ít ra
còn có chút không gian để thở, để nhìn trời và cựa quậy. Con cá Barramundi được
nuôi công nghiệp thì hoàn toàn như con gà nuôi trong ống tre. Chúng bị thúc ép
để lớn nhanh một cách không bình thường.
Hình ảnh này làm cho tôi nghĩ đến những
trẻ em mà đầu óc phải bị nhồi nhét quá nhiều kiến thức đến độ bội thực. Tôi có
thể tự hào về tuổi thơ gần gũi với thiên nhiên hơn trường học của tôi. Nhưng
tôi phải chào thua tuổi thơ ngày nay: một bồ kiến thức của một nhà bác học ở giữa
thế kỷ trước có khi không bằng một góc nhỏ trong cái kho kiến thức của trẻ em
thời đại. Xem ra chuyện gì chúng cũng biết. Xem ra chuyện gì chúng cũng có thể
tra khảo và tìm được câu trả lời.
Nhưng kiến thức không đương nhiên mang lại
sự khôn ngoan. Sự hiểu biết cũng không nhứt thiết làm cho con người có tư cách
và đạo đức hơn. Một bộ óc vĩ đại như thiên tài Albert Einstein chưa chắc đã là
một bậc mô phạm về nhân bản, về đối nhân xử thế. Trong lịch sử nhân loại, có biết
bao nhiêu thiên tài là quái vật hay đồ tể.
Kiến thức không đương nhiên làm cho con
người “nên người” hơn. Tôi có ý nghĩ như
thế khi theo dõi cuộc tranh luận do nhà toán học tài ba Ngô Bảo Châu khơi dậy
khi tuyên bố trên báo Tuổi Trẻ trong nước rằng trí thức “không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội” (x.Việt Luận 3/2/2012).
Lời tuyên bố của người Việt nam đầu tiên
được tặng giải toán học danh giá “Fields” hồi năm vừa qua, lại gợi lên cho tôi
“lời phán dạy” của đồ tể Mao Trạch Đông mà chắc chắn các nhà trí thức trên thế
giới sẽ không bao giờ quên được: “Trí thức
như cục phân”. Phân thì ở đâu và thời nào cũng bị xem như cặn bã thối tha.
Nhưng kể từ khi chế độ cộng sản ở Trung Quốc và Việt nam đã sáng chế ra “phân Bắc”
thì cái thứ cặn bã thối tha ấy lại trở thành “hữu dụng”. Nếu không có tầng lớp
trí thức bị chế độ cộng sản khuất phục, “thuần hóa” thì một Mao Trạch Đông hay
Hồ chí Minh không thể nào có đủ ba đầu sáu tay để xây dựng nhà tù để giam hãm
người dân vô tội hay đào mồ để chôn sống hằng triệu triệu con người. Nếu không
có cái đám trí thức “nô bộc” sẵn sàng bán rẻ lương tâm để cúc cung tôn thờ cá
nhân Hồ Chí Minh và đề cao tội ác của chế độ cộng sản thì dân tộc Việt nam
không phải bị đọa đày cho tới ngày nay. Ngày nay, Việt nam không thiếu “trí thức”,
nhưng toàn là trí thức giả hiệu và đui mù. Bằng cấp thì đầy mình, nhưng chỉ là
bằng cấp giả. Hoặc giả có được kiến thức giúp cho mở to đôi mắt để nhìn, thì họ
cũng chẳng thấy. Hoặc có thấy thì họ cũng giả điếc làm ngơ.
Trong một bài viết gởi cho Ban Việt ngữ
của Đài Phát Thanh BBC, một tác giả từ trong nước ký tên là Huệ Đăng đã viết rằng
“Thế giới có danh xưng gì, Việt nam cũng
có đủ danh xưng ấy, nhưng tất nhiên với bản chất khác hẳn và danh xưng Trí thức
cũng không phải là một ngoại lệ”.
Tra khảo từ “Intellectuel hay
Intellectual” trong Wikipedia, tác giả cho biết danh xưng “Trí thức” xuất hiện
lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1898 khi khoảng 2000 người gồm các nhà khoa học,
nhà văn, nghệ sĩ, công chức cao cấp của Pháp đã “dũng cảm” ký tên vào một tuyên
ngôn để phản đối một vụ án bất công.
Như vậy, theo tác giả, “thuộc tính đầu tiên của Trí Thức là lòng
dũng cảm: dũng cảm bảo vệ ý kiến của riêng mình và dũng cảm đưa ra thảo luận
công khai vì việc chung, vì sự phát triển xã hội. Để có thể có được quan điểm,
nhận định riêng - có tính phê phán - của mình trả lời cho những vấn đề chung của
xã hội mà những người khác hoặc là không nhận thức được, không biết câu trả lời,
hoặc không dám đưa ra thảo luận công khai, người Trí thức phải có khả năng phân
tích, phân biệt Tốt-Xấu, Đúng-Sai, Lợi-Hại, Nên-Không nên, một cách lý trí, độc
lập và khách quan không theo tình cảm của mình”.
Dũng cảm để nói lên và bảo vệ ý kiến của
mình đã đành, trí thức phải trước tiên là người biết tôn trọng sự thật. Chối bỏ
sự thật cũng đồng nghĩa với phủ nhận khả năng “trí thức” của mình. Tôi thường
nghĩ đến người được trao tặng giải Nobel văn chương và được xưng tụng là một
trong những nhà trí thức hàng đầu của Pháp hồi thế kỷ trước là Jean Paul
Sartre. Có lẽ chẳng có ai có óc lý luận sắc bén như ông và cũng chẳng có ai “dũng
cảm” để bày tỏ và bảo vệ ý kiến của mình cho bằng ông. Ông đã từng đi Liên xô để
thấy cái cảnh nghèo nàn lạc hậu của thiên đường xã hội chủ nghĩa và dĩ nhiên
cũng đã nghe hay thấy tận mắt những “quần đảo ngục tù Gulag”. Vậy mà về Pháp,
ông vẫn ra rả ca tụng tính ưu việt của các chế độ cộng sản. Cũng may, về già,
trước làn sóng vượt biên của người Việt nam, khi đã thực sự mở mắt ra để nhìn
thấy tội ác của các chế độ cộng sản, triết gia hiện sinh này mới sám hối và
nhìn nhận bộ mặt thật của chủ nghĩa cộng sản.
Ở Việt nam, vào cuối đời, khi chấp nhận
để cho lý trí và lương tâm soi sáng, những nhà trí thức cộng sản Việt nam như
Chế Lan Viên...mới có đủ can đảm để nói lên rằng mình đã ngồi vào bàn tiệc để
ăn bánh vẽ và đã bị cưỡng bách để bắt người khác cũng ăn bánh vẽ với mình. Trí
thức cũng phải là người biết sám hối. Mà nói tới sám hối là nói đến những giá
trị đạo đức. Bỏ qua một bên ý niệm tôn giáo về “tội lỗi” và sự xúc phạm đến Thượng
Đế hay thần minh, đã nói tới sám hối là phải nghĩ đến những giá trị đạo đức. Dù
thuộc tôn giáo hay không thuộc tôn giáo nào, đã là người thì không thể trốn
tránh khỏi những giá trị đạo đức.
Không phải chỉ nghêu ngao hát một bài là
thành ca sĩ, không phải chỉ sắp xếp mấy nốt nhạc thành một bài ca là đủ để tự
xưng là nhạc sĩ, cũng chẳng phải viết được một truyện ngắn là có quyền gắn thêm
cái đuôi “nhà văn” vào tên của mình...Cũng thế, tôi chẳng bao giờ thấy mình có
được một thành tựu nào khả dĩ cho phép tôi tự xưng là nhà “trí thức”. Nhưng tôi
xác tín một điều là giá trị đích thực của một con người, nhân cách của con người
không tùy thuộc vào kiến thức hay bằng cấp người đó đạt được, mà là phẩm hạnh của
con người đó.
Người Việt nam thường gắn liền “học” với
“hành”. “Hành” không chỉ là “thực hành” điều mình đã học được, mà còn là sống
cho xứng với những hiểu biết của mình. Đúng hơn, người ta phải để cho “học” đi
đôi với “hạnh”.
Tôi chẳng bao giờ xứng đáng để được gọi
hay tự xưng là trí thức. Nhưng tôi nghĩ rằng người “trí thức” cũng phải là người
“tỉnh thức”. “Tỉnh thức” bởi vì mình đang sống với người khác và để sống cho
người khác. Xét cho cùng, thước đo của con người không nằm trong mớ kiến thức
tiếp thu trong sách vở, nghiên cứu hay tự mình khám phá, mà chính là ở tinh thần
vị tha. Có rất nhiều điều quan trọng trong cuộc sống như hạnh phúc, đau khổ, cảm
thông, chia sẻ...không bao giờ thể diễn tả hết được qua kiến thức mà chỉ có tiếp
cận, sống cùng, sống với mới giúp cho người ta “thấm thía” được. Như vậy, giáo
dục cho một đứa trẻ nên người không phải là thúc bách hay cưỡng bách nó phải giựt
cho bằng được mảnh bằng hay trở thành một nhà trí thức, mà chính là biết quan
tâm đến người khác, sống với và cho người khác trong tinh thần liên đới và nhứt
là cảm thông.
Thời đại ngày nay sản sinh ra rất nhiều chuyên viên nhưng lại chẳng hề có chuyên viên ngành cảm thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét