Chu
Thập 21.9.10
Thuộc nhóm theo
trường phái “ngựa quen đường cũ” cho nên tôi cũng chỉ biết chạy “đường thẳng”.
Cho đến một lần vì có tai nạn trên Freeway nên tất cả xe cộ phải “detour” vào
con đường quốc lộ ngoằn ngoèo, tôi mới thấy mình có dịp khám phá ra những cảnh
trí thơ mộng hơn hẳn mấy cái “lane” thẳng băng và mấy cái vách núi khô cằn xấu
xí của Freeway. Hôm đó, coi như tôi bị kẹt xe nhưng bất ngờ được dịp ngắm cảnh
thiên nhiên, tôi thấy mình có “lời” chứ không bị “lỗ”. Cũng từ đó, mỗi khi thấy
đầu óc mệt mỏi, tôi lại đánh xe vòng vòng trên con đường vắng đó để được đắm
chìm trong rừng cây xanh.
Nói là cây xanh cho
oai nhưng thật ra, loại cây “gum” mà người mình gọi là khuynh diệp vẫn chiếm đa
số. Với cái thân loang lổ lúc nào cũng như bị “bạch tạng”, lang ben hay ghẻ
chóc và vài chòm lá xam xám lưa thưa, gum cũng chẳng khác gì “người đàn bà có
nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai”. Chưa kể chẳng may gặp trận cháy
rừng, thì rừng gum mới càng thảm hại: chúng không gục ngã trong trận cháy mà đứng
trơ trơ đưa những cánh tay khẳng khiu, đen thui lui lên trời. Nhưng dù sao, ngắm
rừng gum vẫn còn hơn là phải ngắm những cánh đồng nứt nẻ vì hạn hạn ở phía
trong của nước Úc.
Nhân tiết Xuân ấm
áp trở lại sau ba tháng mùa Đông, tôi tự dưng nảy ý định đi trở lại con đường ấy
như làm một cuộc du ngoạn “tự phát”. Khi bóng cây cao của khu lâm viên bắt đầu
che rợp trên đầu thì cũng là lúc tôi nhận ra trước mắt mình là một khung cảnh
khác, không giống với những gì tôi còn giữ trong trí nhớ: dưới những cây gum là
cả một thế giới nhộn nhịp của đủ loại bông hoa. Những bờ cây bụi cỏ khô cằn, xác xơ,
“vô nghĩa” ngày nào giờ đây đã hoàn toàn lột xác: cây cỏ nào cũng có bông và những
cánh bông dù nhỏ bé li ti cũng “diện” đẹp đến “giựt con mắt”! Chim chóc cũng
hăng hái “tham gia” với cây cối: chúng vừa bay lượn, vừa phát ra đủ mọi âm
thanh, từ líu lo, lách cha lách chách, hò lơ hò lờ đến những tiếng re ré chói
tai. Chưa bao giờ các giác quan của tôi lại bị “tấn công” ồ ạt như vậy. Tôi có
cảm tưởng tất cả mọi sinh vật chung quanh tôi đang tìm mọi cách gây sự chú ý của
tôi và buộc tôi phải quan tâm đến chúng. Và đương nhiên, chúng đã thành công:
tôi đã bỏ ra cả ngày trời để ngắm nghía, nâng niu và trầm trồ trước những vẻ đẹp
có một không hai của từng loại.
Tôi nghĩ, làm mọi
cách để gây sự chú ý và quan tâm của người khác, có lẽ là một đặc tính đương
nhiên của mọi loài sinh vật. Trong đó, loài người có vẻ thích “chơi trội” nhất.
Từ không biết bao nhiêu kiểu thời trang, kiểu tóc…thay đổi như chong chóng cho
đến cả những trò nguy hiểm, dị hợm, lố bịch, quái đản…tất cả không ngoài mục
đích là thu hút cái nhìn của người khác. Bề ngoài thường không thể hiện được những
gì thật sự đang xảy ra trong nội tâm của một con người. Bìa sách không nói lên
nội dung cuốn sách, nó chỉ muốn người ta phải cầm cuốn sách lên và mở ra. Trong
thế giới hiện đại, con người càng cô đơn thì lại càng muốn gây sự chú ý, đánh động
sự lưu tâm của người khác bằng mọi cách.
Trong lãnh vực
tình cảm, chuyện tạo ra sự chú ý của người đối diện lại càng phức tạp. Từ những
cử chỉ âu yếm thương yêu đến ghen tương, cay đắng, hận thù. Người ta có đủ mọi
cách và làm đủ mọi kiểu để đánh động sự quan tâm và tình cảm của người khác,
thông thường nhứt trong cảnh tuyệt vọng cô đơn là “khổ nhục kế” và “ăn vạ”.
Tôi có biết một
bà cụ hiện đang sống trong viện dưỡng lão. Bà không có vấn đề gì đáng nói ngoại
trừ cái tánh làm phiền nhân viên một cách không cần thiết. Ban ngày thì không đến
nỗi nhưng cứ sau 9 giờ tối, khi những tiếng động trên hành lang thưa dần là bà
bắt đầu ấn chuông gọi nhân viên liên tục. Bà có đủ mọi cớ để nói, khi thì đau bụng,
khi thì không ngủ được, lúc thì nhức tay, khó thở…Có mấy lần bà làm cho nhân
viên quýnh quáng vì bà làm như sắp…đi đời. Chuyển bà vào nhà thương thì chẳng
tìm ra bệnh hoạn gì cả. Gọi mà chờ lâu không thấy ai đến, bà liền ra hành lang
vừa đi vừa khóc lóc, la hét, không để cho các cụ khác nghỉ ngơi. Từ từ, nhân
viên chẳng còn ai kiên nhẫn với bà, người ta phục vụ bà như chuyện “trả nợ”.
Tính tình của bà cứ càng ngày càng “khó ưa” vì những chuyện gây sự phiền toái
như vậy. Cho đến một hôm, cô y tá trưởng không còn chịu nổi, cô đến “thương lượng”
với bà. Cô nói: “Việc gây náo động của bà làm phiền tới những người khác đang cần
sự yên tĩnh, nếu bà đừng ấn chuông và khóc lóc la lối nữa, tôi hứa với bà, cứ mỗi
nửa giờ, tôi sẽ đến để xem bà cần gì thì tôi sẽ giúp bà. Bà không cần phải gọi
tôi nữa.” Và cô giữ đúng lời hứa. Cuối
cùng chỉ sau lần thăm thứ tư thì bà đã lăn quay ra ngủ, không loay hoay lục sục
như mọi khi.
Điều mà cô y tá
đã tìm ra là: bà cụ không cần gì khác hơn là được quan tâm.
Không biết có phải
khi về già con người trở lại tuổi thơ không, nhưng tôi thấy trường hợp của cụ
bà trong viện dưỡng lão trên đây chẳng khác nào mấy đứa trẻ tôi thường đến thăm
trong các viện mồ côi trước năm 1975. Cứ mỗi lần vào thăm các em, tôi thấy như
mình bị “trời trồng”, không thể nhích chân đi được: đứa nào cũng đòi khách bồng
ẵm. Buông ra là chúng khóc. Dễ có mấy ai
mà không mủi lòng khi vào thăm một viện mồ côi.
Càng thiếu tình
thương, con người càng tìm cách gây sự chú ý. Nhà văn Nam Cao đã tả đúng cái
tâm trạng của con người cô đơn đáng thương qua nhân vật “Chí Phèo”. Tác giả giới
thiệu nhân vật của mình như sau: “Hắn vừa
đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế , cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có
hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là
tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hẳn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả
làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!” Không ai lên tiếng cả. Tức thật!
Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa
nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có
phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân
hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hẳn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi
đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng
vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo?
Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.”
Chí Phèo “chửi”
chỉ vì anh là một đứa trẻ “mồ côi”, không biết ai sinh ra mình. Xét cho cùng,
có ai mà không là một “đứa trẻ mồ côi” trong cuộc sống này? Có ai mà không cảm
thấy cô đơn, bơ vơ, lạc lõng trong dòng đời? Có bất hạnh đến nỗi không biết ai
sinh ra mình hay có đầy đủ cha mẹ, có nghèo nàn mạt rệp hay có tất cả mọi sự,
có bị đày xuống vực thẳm của tủi nhục hay ngự trên đỉnh cao của danh vọng, có đổ
vỡ hay tràn trề hạnh phúc lứa đôi…trong thẳm cung của cõi lòng, liệu có ai mà
không cảm thấy cô đơn không?
“Chửi” như Chí
Phèo là một cách khẳng định. Chửi và chỉ mong được chửi lại. Chửi là một cách để
“thét” lên rằng tôi hiện hữu, tôi là một
con người, tôi cần được nhìn nhận, tôi cần được tôn trọng, tôi cần được quan
tâm, tôi cần được yêu thương…
Tất cả những luận
cứ mà tác giả Dale Carnegie đưa ra trong tác phẩm nổi tiếng “Đắc Nhân Tâm” của
ông đều được xây dựng trên nguyên tắc: con người ai cũng muốn được chú ý và yêu
thương.
Ông giải thích:
“Hết thảy chúng ta đều cần thiện cảm, như
được người khác khen, hoặc khuyến khích, hoặc an ủi. Em bé đứt tay hay u đầu, vội
vàng chạy lại chìa ra cho người lớn thấy, có khi lại tự va đầu vào cái gì cho u
lên để được người khác thương hại, vuốt ve. Người lớn thì kể lể dài dòng những
tai nạn, bệnh tật của mình và nhất là những chi tiết trong lúc bị mổ xẻ. Những
tai họa đó có thật hay tưởng tượng cũng vậy, loài người bao giờ cũng thích được
người khác thương tới mình.” (Dale Carnegie, Đắc Nhân Tâm, bản dịch của
Nguyễn Hiến Lê, Đại nam,
trg 193)
Một trong những
điều thường làm chúng ta thất vọng là không thể hiểu được những phản ứng và
hành động của người khác đối với chúng ta. Chính vì không muốn chấp nhận những ẩn
số trong lòng người mà chúng ta thất vọng và đau khổ. Nếu nắm vững cái nguyên tắc
được tác giả Carnegie đề ra trên đây thì có lẽ mỗi khi đứng trước những cách cư
xử bất thường của người khác, chúng ta sẽ dễ dàng có thái độ cảm thông hơn .
Bên ngoài cái vỏ
“xem trời bằng vung” của Chí Phèo thật ra vẫn còn có một trái tim biết rung động,
biết yêu thương. Trong cả cái làng Vũ Đại chỉ có một mình Thị Nở đã nhìn thấy
cái trái tim ấy của Chí Phèo. Chỉ có một mình Thị Nở đã biết nhìn, biết cười và
đã làm cho Chí Phèo biết cười, biết khóc, biết buồn chứ không chỉ có biết chửi.
Nhà văn Nam Cao
ghi lại một sự “chuyển hóa nhiệm mầu” nơi Chí Phèo sau khi được Thị Nở cho ăn
bát cháo hành: “Thằng này rất ngạc nhiên.
Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn
được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn
vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm gì cho người ta sợ. Hắn nhìn
bát cháo mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn, rồi lại toe toét cười….Hắn
thấy vừa vui vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như ăn năn.”
Hai “hòn đảo” cô
đơn đã nhìn nhau và đã nhận ra nhau.
Triết gia hiện
sinh Pháp Jean Paul Sartre là người xem “tha nhân như hỏa ngục” cho nên lúc nào
cũng tránh cái nhìn của người khác. Ông sợ bị nhìn và cũng tránh nhìn người
khác.
Thực tế luôn cho
thấy có tỷ lệ thuận giữa thái độ của chúng ta đối với người khác và mức độ hạnh
phúc của chúng ta. Một người lúc nào gặp người khác cũng nhìn đi chỗ khác e khó
có thể là một người vui vẻ và có an bình trong tâm hồn.
“Đắc nhân tâm”
đích thực không có nghĩa là cố gắng làm
ra vẻ luôn tìm cách làm vừa lòng hay tỏ ra thân thiện với người khác, theo kiểu
“ngoại giao”, mà thiết yếu chính là xem người khác “như mình ta vậy” và cố gắng tôn trọng và đối xử với họ với tất cả tấm
lòng tử tế. Thực vậy, hầu hết mọi người xung quanh chúng ta hay những người chúng
ta gặp gỡ mỗi ngày đều giống chúng ta. Họ cũng có người thân, họ cũng có người
để yêu thương và nhu cầu muốn được thương yêu, họ cũng có những khó khăn, những
quan tâm, những sở thích, những điều lo sợ...Thực ra, ai cũng thích có một thế
giới riêng nhưng vẫn muốn thuộc về một “cộng đồng”. Quan tâm đến nhau không nhất
thiết đi vào thế giới riêng của nhau nhưng chỉ là để mỗi ngày, ghé qua ngôi nhà
tâm hồn của nhau và gởi một lời chào, một sự hiện diện tích cực và một sự hỗ trợ
khi cần. Một nụ cười thân thiện, một ánh mắt cảm thông lắm khi lại nhiều hơn cả
một gia tài. Những người chết cô đơn không ai biết mà báo chí thường đăng, trước
khi chết có lẽ họ sẽ sẵn sàng cho đi tất cả chỉ để đổi lấy một bàn tay nắm của
người khác trước khi lìa đời.
Tiếng gọi Mùa
Xuân có sức đánh thức vạn vật trở mình thức giấc để khoe âm khoe sắc. Tôi thấy
mình cũng giống như mọi vạn vật khác, dù đi giữa một thiên nhiên tươi vui, tôi
cũng cần một chia sẻ và quan tâm của người khác. Không có điều đó, rừng Xuân
trước mặt cũng chỉ là một cảnh vật vô nghĩa và lắm khi, tô đậm thêm sự lẻ loi của
một con người. Hòn sỏi khi nằm một mình trên cát không thể tạo ra thanh âm khi
bị va chạm. “…Sỏi đá cũng cần có nhau”
huống chi là con người!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét