Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Hạt Cát Trong Chiếc Giày



                                                                             Chu Thập 4.11.2010


Nơi vùng quê tôi đang ở, cứ mỗi Chúa nhựt thứ ba hàng tháng đều có một phiên chợ bán đấu giá gia cầm. Từ chim, gà, vịt, đến ngan ngỗng và ngay cả trứng đủ loại cũng đều được mang ra đấu giá. Bầu khí “tranh nhau mua” thật là hào hứng. Đây là lúc mà tôi thấy rõ cái tính “khùng” của người Úc nhứt. Hình như cái nguyên tắc mà nhiều người Úc tham gia buổi đấu giá thường tuân thủ là: vật gì càng nhỏ thì càng quý. Nguyên tắc này có lẽ có giá trị một cách đặc biệt đối với các giống chim. Giống chim càng nhỏ thì càng được ưa chuộng. Bất kể giá cả, không cần biết giá thị trường bao nhiêu, người ta đưa tay lên đấu cho đến khi không còn đấu thủ mới thôi.
Nhưng có lẽ người Úc tỏ ra “khùng” nhứt khi đấu giá mấy con gà con. Bằng mọi giá phải mua cho bằng được mấy con chim quý là điều có thể hiểu được. Đằng này, chỉ có mấy con gà con mà người ta cũng “sống mái” với nhau cho đến cùng. Tội nghiệp cho mấy chú gà trống dềnh dàng. Có chú nặng cũng đến cả 3,4 ký lô với bộ mã thiệt đẹp. Cái thứ gà đi bộ này mà gặp người Việt mình thì bỏ ra 25, 30 đô cũng đáng đồng tiền bát gạo. Vậy mà có lúc tôi thấy có con chỉ ra giá một đô thôi, mà chẳng ai chịu rước lấy.
Muốn thay mấy chị gà mái đẻ đã quá “đát” cho nên vừa rồi tôi cũng đành “bóp bụng” ăn thua đủ với mấy người Úc để “rước” một bầy gà 6 con vừa nhú lông cánh. Rước chúng nó về nhà, dựng cho chúng một “ngôi nhà” riêng và ngày ngày chăm sóc chúng, bây giờ tôi mới thấy người Úc không “khùng” chút nào cả. Những lúc mệt mỏi hay không biết làm gì, chỉ cần rải cho chúng một ít thức ăn là tôi cảm thấy được thư giãn ngay. Cái hình ảnh gà con chui rúc dưới cánh gà mẹ trông dễ thương đã đành, mà cảnh gà con không mẹ chen chúc bên nhau tranh thức ăn, kêu chim chít, chẳng ai dạy mà cũng bươi cũng mổ lung tung làm tôi ngắm hoài không thấy chán. Con người hay thú vật, hễ cứ còn nhỏ là dễ thương. Hãy thử nhìn một con voi con, một bò con, một con ngựa con…đi bên cạnh mẹ chúng đi. Còn gì dễ thương bằng!  Dữ dằn như sư tử hay cọp, nhưng chú bé con nào nhìn cũng dễ thương cả. Ngay cả possum là cái loài tôi ghét cay ghét đắng vì chuyên phá vườn nhà tôi, nhưng chỉ vì “lỡ” nhìn thấy cảnh possum con bám trên lưng mẹ, mà tôi đành phải biến thù thành bạn. Nói gì đến con người ta, còn hình ảnh nào trong đời người đẹp cho bằng tuổi thơ.
Những lúc như thế tôi thường có ý nghĩ: thế giới này sẽ buồn thảm biết chừng nào nếu không có tuổi thơ của con người cũng như thú vật. Nghĩ xa hơn một chút, tôi lại nhận ra sự cần thiết và tầm quan trọng của “những điều nhỏ” trong cuộc sống con người. Có qua tuổi thơ rồi mới trưởng thành. Có nguyên tử rồi mới có phân tử. Có sợi chỉ rồi mới nói tới chuyện dệt ra tấm vải. Có làm được những chuyện nhỏ rồi mới nói đến chuyện đại sự. Chưa sản suất được một chiếc xe đạp cho đúng tiêu chuẩn hay ngay cả một cái đinh cho đàng hoàng mà nói đến chuyện sáng chế ra máy bay hay hỏa tiễn quả là chuyện hoang tưởng.
Tôi đặc biệt nghĩ đến một hiện tượng tại Việt nam hiện nay mà tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc gọi là “văn hóa kỷ lục”.  Trong những năm gần đây, người Việt nam trong nước thích lập kỷ lục. Cá nhân, đoàn thể và ngay cả chính phủ cũng đều có chung một đam mê: lập kỷ lục. Việt nam có cái gùi lớn nhứt thế giới, Việt nam có cái cốc lớn nhứt thế giới. Việt nam làm được cái bánh chưng lớn nhứt thế giới.Và điều được rêu rao như kỷ lục mới nhứt tại Việt nam dĩ nhiên là lễ hội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Đây là lễ hội hoành tráng nhứt, với buổi diễu hành đông nhứt, đốt pháo bông lâu nhứt và đẹp nhứt, với con đường gốm sứ dài nhứt.v.v. Cứ như hiện nay ở Việt nam cái gì cũng nhứt cả!
Nhưng có mù thì may ra mới không biết rằng những kỷ lục của Việt nam chẳng khác nào những công trình bị rút ruột. Cái bánh chưng lớn nhứt thế giới không chỉ có nếp và nhân, mà còn có cả “xốp” được độn vào cho ra đồ sộ và dĩ nhiên, chẳng ma nào dám thưởng thức. Dở hơi nhứt là chuyện chế độ cộng sản Việt nam muốn có nhiều tiến sĩ nhứt thế giới, nhưng “những tiến sĩ ma, tiến sĩ giấy, tiến sĩ học trong vòng ba tháng, tiến sĩ không cần viết luận văn và cũng chẳng cần nghiên cứu, chẳng cần có chút kiến thức gì cả, những tiến sĩ được cấp bởi các sơ sở chuyên chế tạo bằng dỏm” thì chắc chắn không nước nào dám qua mặt Việt nam. (x. Nguyễn Hưng Quốc, Văn Hóa Kỷ Lục, Blog/VOA tiếng Việt 22 /10/2010)
Ngay cả mấy ông tiến sĩ “thiệt” thì ruột cũng trống rỗng. Chính vì thế mà mới đây Tạp Chí Khoa Học Quốc Tế đã phải gởi thư cảnh cáo và rút bỏ hai bài báo của một số giáo sư và tiến sĩ tại Viện Vật lý thành phố Hồ Chính Minh và Trung Tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ Bức xạ. Dựa trên cơ sở đạo đức, Tạp Chí Khoa học Quốc tế đã cho biết các ông tiến sĩ Việt nam này đã “đạo văn”, nghĩa là bài viết của các ông chỉ là một sao chép hay xào luộc từ công trình nghiên cứu của người khác.
Đây không chỉ là nỗi nhục của một số cá nhân mà còn là đại họa cho cả một dân tộc bao lâu giới lãnh đạo Việt nam vẫn còn chạy theo đam mê “lập kỷ lục”. Làm sao có phát triển thực sự khi sự phát triển ấy không được xây dựng trên một nền móng vững chắc mà chỉ dựa vào những hình thức phù phiếm giả tạo bên ngoài.
Điều này lại càng đúng với sự phát triển nhân bản của cá nhân. Một người được xem là “thành toàn” nghĩa là có nhân cách không nhứt thiết phải là người lập được nhiều kỷ lục hay thành tích vẻ vang, mà là một con người dám sống thực với con người của mình. Thích làm chuyện “vĩ đại” mà không khởi sự từ những chuyện nhỏ thì chẳng khác nào nhỏ không đi học lớn đòi làm quan.  
Ở Việt nam, đi đâu cũng nghe và thấy hai chữ văn hóa, cho nên có người lại sáng chế ra cụm từ “văn hóa lùn” để chỉ cái thói thích khoe khoang ấy. Trong một bài viết mới đây, đạo diễn Song Chi, người hiện đang tỵ nạn tại một nước Bắc Âu, viết rằng “văn hóa lùn, nên cái gì cũng muốn phải thật to, thật hoành tráng, thật xa xỉ, thật nhiều theo kiểu có bao nhiêu phô ra bằng hết.” (Song Chi, Cái Gốc Văn hóa, Thiên tai và Nhân họa, Người Việt online 23/10/2010) Dốt mà thích nói chữ, quê mùa mà thích làm sang cho nên làm sao tránh khỏi cái cảnh kịch cỡm, nửa mùa, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ. Báo Lao động trong số ra ngày 10 tháng 5 vừa qua đã phải kêu lên: “Đâu rồi Hà nội hào hoa và lịch lãm”. Hồ Hoàn Kiếm tự thân rất đẹp, một vẻ đẹp giản dị mà sang trọng, vậy mà rất tiếc trong những ngày đại lễ nó được trang điểm thật lòe loẹt và vụng về. Khắp nơi tràn đầy những loại hoa giả, trang kim lấp lánh, đèn nhấp nháy xanh đỏ giăng khắp tứ bề cao thấp, làm phá vỡ cảnh quan tự nhiên.” Đạo diễn Song Chi còn trích dẫn những nhận xét “nặng lời” hơn của nhà văn Nguyên Ngọc: “Có phải có một điều gì đó không cách xa nhau lắm, không thật sự khác nhau giữa cái diêm dúa, phô trương, ồn ả, xa xỉ, phản cảm, cả vô cảm nữa của lễ hội…với cái bừa bãi xấu xa đáng buồn ngay sau lễ hội.” Hình ảnh rõ nét cho thấy “văn hóa lùn” đó chính là cái cảnh người dân chen lấn, xả rác bừa bãi, vặt hoa, giẫm lên hoa, chặt chém giá cả vô tội vạ…Sau đại lễ, nhiều báo đã đưa tin, hình ảnh các con đường, khu vực quanh Hồ Gươm, sân vận động Mỹ Đình ngập ngụa rác, cây cỏ tan tành như sau một cơn đại hồng thủy.” (bài đã dẫn)
Khi dân trí chưa qua khỏi trình độ vỡ lòng về cách sống văn minh, mà đòi qua mặt các nước về con số tiến sĩ cũng như lập đủ thứ kỷ lục thì quả thật chẳng gì dị hợm bằng. Làm sao không cười ra nước mắt được khi một chế độ tàn bạo khát máu vào bậc nhứt thế giới lại tự xưng là “lương tâm của nhân loại”. Làm sao không cảm thấy hổ ngươi lây khi một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, ngu dốt gần nhứt thế giới lại tự hào là “đỉnh cao trí tuệ” của loài người.
Phải tập đi mới có thể chạy. Phải có khả năng làm những điều nhỏ thì mới mong làm chuyện đại sự. Sai một ly đi một dậm: đó là định luật cơ bản nhứt trong cuộc sống.
Điều nhỏ thường là thước đo sự vĩ đại. Bỏ qua những điều nhỏ hay phạm một sai lầm nhỏ cũng có thể rước lấy một đại họa. Nói như ông Baden Powell, nhà sáng lập phong trào Hướng Đạo, làm đau chân chúng ta không phải chông gai trên đường đi mà là một hạt cát nhỏ trong đôi giày của chúng ta.
Vào thập niên 1980, Elvin Bale được xem là một người làm xiếc gan dạ nhứt. Một trong những trò biểu diễn ăn khách nhứt và đồng thời cũng nguy hiểm nhứt của ông là làm một “trái đạn” bằng xương bằng thịt để được bắn ra từ một khẩu đại bác. Khi được nhả ra từ nòng súng, ông bay trên không như một viên đạn và rơi vào một khu an toàn ở bên kia một ngọn đồi.
Nhưng một ngày năm 1987, tại Hong kong, do một sai lầm nhỏ, ông đã rước một đại họa suốt đời. Số là trước khi biểu diễn, Elvin Bale thường cho bắn thử một bao cát có trọng lượng hoàn toàn bằng ông. Điều này có nghĩa là bao cát bay cao bao nhiêu và xa bao nhiêu thì ông cũng sẽ bay được bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong cái ngày định mệnh ấy, ông đã phạm một sai lầm nhỏ. Cái bao cát có trọng lượng bằng ông đã bị để quên ngoài trời sau một đêm mưa. Ông đã nhận thấy điều đó, nhưng vì nghĩ rằng nước mưa không thấm vào bên trong và làm thay đổi trọng lượng của bao cát, cho nên ông đã không cân lại bao cát. Bao cát đã được bắn lên trước giờ biểu diễn như thường lệ và người ta căn cứ vào chỗ rơi của bao cát để chuẩn bị cái nệm làm nơi mà Elvin Bale cũng sẽ rơi xuống. Nhưng vừa được bắn lên, ông đã cảm nhận ngay một điều bất thường: ông bay cao hơn và nhanh hơn mọi khi. Và dĩ nhiên, thay vì rơi xuống cái nệm chờ sẵn, ông đã lao người xuống một thềm xi măng: ở tuổi 41, Elvin Bale đã thoát chết, nhưng hoàn toàn và vĩnh viễn bị tê liệt. (x. Linda Kaplan Thaler and Robin Koval, The Power of Small, p.88-90)
Mới đây, vì bất thần bị chứng chóng mặt, tôi phải vào bệnh viện để được xét nghiệm về đủ mọi cơ phận, đặc biệt nhứt là về tai và mắt. Đây là dịp để tôi nhớ lại những kiến thức cơ bản về mắt học được ở thời trung học. Trong mỗi con mắt của tôi có đến 107.000.000 tế bào. Trong số này, có 7 triệu được cấu tạo theo hình “nón” giúp tôi nhìn thấy và phân biệt được mầu sắc. Bên cạnh đó là hàng trăm triệu tế bào hình “roi” giúp tôi thích nghi với ánh sáng mờ nhạt. Khi các tế bào roi hoạt động, tôi không còn thấy được mầu sắc nữa. Những số liệu về mắt được các nhà khoa học tiết lộ trên đây khiến tôi run sợ. Tôi không thể tưởng tượng được “cái máy nhìn” của tôi được cấu tạo tinh vi “khủng khiếp” như thế và mỗi một tế bào ấy đều cần thiết để tôi có thể nhìn thấy và phân biệt được mầu sắc.
Sự cấu tạo tinh vi của cái máy thu hình là con mắt của tôi gợi lên cho tôi nhiều suy nghĩ. Tôi được mời gọi để không xem thường điều mà tôi cho là “nhỏ” trong cuộc sống hàng ngày. Trước hết là giá trị cao cả và độc nhứt vô nhị của mỗi một con người, dù là những kẻ bị xem là nhỏ bé, thấp kém, nghèo hèn trong xã hội.

Kế đó là những “chuyện nhỏ” trong cuộc sống: chuyện nào cũng đều trở thành “vĩ đại” nếu được tôi làm với tất cả ý thức trách nhiệm và tình yêu thương.
Như vậy, chẳng có gì để than phiền về một cuộc sống mà tất cả mọi sự đều chẳng có gì đáng nói. Tự những điều nhỏ bé bình thường xảy ra trong cuộc đời tôi hằng ngày từ sáng đến tối đã là những điều tốt lành “vĩ đại”. Cuộc đời như vậy đối với tôi sẽ mãi mãi là một cuộc thám hiểm để khám phá, bởi vì nói như văn hào Pháp Marcel Proust, “cuộc thám hiểm thật sự không hệ tại ở chỗ tìm ra đất mới, mà là có được đôi mắt mới.”



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét