Armidale NSW, 3.2014 |
Báo “The Sydney
Morning Herald” số ra ngày 30-31 tháng 10, 2010 vừa qua cho biết: các nữ tu Dòng
Saint Joseph do thánh nữ Mary McKillop thành lập đã thiết lập một trang mạng
dành riêng cho việc cầu xin thánh nữ bầu cử. Trang mạng được trang hoàng bằng 15
cánh hoa hồng nhấp nháy trên ngôi mộ của thánh nữ. Nhấp con chuột máy vi tính
vào đó sẽ thấy hiện ra mệnh lệnh: “Bạn hãy viết lên lời cầu xin của bạn.” (với
tối đa 255 chữ)
Theo tờ báo, chỉ
mới hai tuần sau khi bà Mary MacKillop được phong thánh, đã có trên 6000 người
vào trang mạng này để xin cầu nguyện. Người thì xin cho ngôi nhà của mình được
ngã giá. Kẻ thì xin cho vụ kiện tụng ở sở làm được giải quyết. Sinh viên ngoại
quốc xin cho chóng được chiếu khán nhập cảnh vào quê hương của thánh nữ. Có người
xin cho được công ăn việc làm. Đa số xin được tìm thày chạy thuốc đúng nơi đúng
cách để được lành bệnh. Cũng có người chỉ xin một cách đơn giản là tìm lại được
hạnh phúc.
Đó là những lời
cầu xin chính đáng. Tôi cũng đã từng xin “những ơn” như thế. Trong cơn hoạn nạn,
nhận ra sự bất lực của mình, chạy đến với Chúa Mẹ, Thần Thánh để xin giúp đỡ là
chuyện bình thường.
Nhưng cũng có những
lời cầu xin khá “ngộ nghĩnh” được báo “The Sydney Morning Herald” ghi lại. Chẳng
hạn có người xin cho Mark Webber được thắng giải vô địch thế giới trong cuộc
đua xe “Formula One”; có người xin cho tìm được một ngôi nhà mới để thoát khỏi
những người hàng xóm ồn ào như cái “hỏa ngục”; ai đó lại xin cho được trúng số
để giàu có; có người còn xin cho việc giải phẫu và ghép cơ quan sinh dục của
mình được tốt đẹp…
Không biết có phải
vì những lời cầu xin nhảm nhí trên đây không mà theo trích dẫn của tờ báo, chủ
tịch của Hội Vô Thần Úc đại lợi là ông
David Nicholls, lại tuyên bố rằng mở một trang mạng như thế là một điều không tốt
xét về mặt tâm lý. Chủ tịch của Hội này giải thích: “Trong khi thế giới đầy đau khổ và chết chóc thì phải chăng không quá “nhảm
nhí” khi hỏi “có biết chìa khóa của tôi ở đâu không?”
Cách đặt vấn đề
của ông Nicholls trên đây không khỏi làm cho tôi suy nghĩ về vô số những lần cầu
xin nhảm nhí mà tôi cũng ít khi tránh khỏi, nhứt là những lần tôi đã khước từ sử
dụng cái khả năng cao quý nhứt mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho tôi là lý trí.
Tôi cũng nhớ lại
lời cảnh cáo của một vị giám mục Phi luật tân về cung cách cầu nguyện đầy dị
đoan của nhiều người dân của quốc gia được mệnh danh là “Công giáo” tại Á Châu
này. Số là dạo đầu tháng Mười Một, nước này cho mở cuộc xổ số với lô độc đắc được
xem là lớn nhứt từ trước đến nay. Số người xếp hàng mua số đông đảo là chuyện ở
đâu cũng thấy. Nhưng riêng tại quốc gia có đông tín hữu công giáo nhứt Á Châu
này, số người chờ trước cửa các nhà thờ hay đền thánh để khấn vái cho trúng độc
đắc cũng dài không kém. Theo ghi nhận của một phóng viên của báo “The Manila
Bulletin”, tại một khu phố nọ ở Manila, nhiều người sau khi mua vé số đã vào một phòng
triển lãm tôn giáo bên cạnh để “áp” các tờ vé số vào các ảnh tượng của Đức Mẹ. Chuyện cờ bạc hiện là một
“tệ nạn” mà chính phủ Phi luật tân đang phải đối phó, đồng thời cũng là một vấn
đề làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo phải
“điên cái đầu” không kém. Ngoài chuyện xổ sổ vốn được hợp pháp hóa, còn có cái
đuôi “ngầm” của nó là chuyện đánh số đề mà chính phủ không thể kiểm soát được.
Nhưng nan giải không kém là chuyện đá gà vốn cũng được hợp pháp hóa tại Phi luật
tân. Các trường gà, còn gọi là “Coliseo” mọc lên khắp nơi. Đây là nơi làm tán
gia bại sản của dân chúng và là ổ tham nhũng của các viên chức chính phủ, đó là
chưa nói đến tiếng gà đá tranh nhau gáy inh ỏi suốt đêm làm phiền giấc ngủ của
người dân. Về chuyện đá gà thì kể không xuể. Nhưng riêng với người Công giáo
thì đây cũng là cái cớ xúc phạm mà người ta khó có thể tưởng tượng được ở những
nước khác: nhiều người nói rằng không thiếu những người nuôi gà đá chuyên nghiệp
hay những kẻ đá gà thường đến nhà thờ rước lễ và mang “Bánh Thánh” về cho gà ăn
để được sung sức!
Dị đoan tại quốc
gia có đông tín hữu công giáo nhứt tại Á Châu này là chuyện kể mãi không hết.
Không cần phải
len lỏi vào các trường gà, du khách nước ngoài chỉ cần ghé vào nhà thờ có tượng “Chúa Giêsu Nazareth” được mệnh
danh là tượng “Chúa Giêsu Đen” tại khu Quiapo, một trong những khu phố sầm uất
nhứt của Manila, cũng sẽ thấy được một hiện tượng rất “Phi”. Mỗi năm, cứ đến
ngày rước kiệu bức tượng nổi tiếng này thì không thiếu cảnh người người chen
chúc nhau để sờ cho bằng được bức tượng khiến cảnh “từ chết đến bị thương” trở
thành chuyện thường. Ngày nào cũng có nhiều người đứng xếp hàng để được đến hôn
hay sờ vào bàn chân của Chúa. Cứ tưởng cái cảnh “sờ mu rùa” chỉ xảy ra cho các “ông
nghè ông cống tương lai” của Việt nam. Bức tượng “Chúa Giêsu Nazareth” đen cũng
bị bào mòn không kém vào những kỳ thi tại các đại học ở Manila.
Tôn thờ Chúa Giêsu,
người dân hải đảo này lại càng sùng kính Đức Mẹ hơn. Dĩ nhiên theo cách thế
cũng rất “đặc trưng” của họ.
Tại nhà thờ
Antipolo, nằm ở ngoại ô Manila, mỗi năm cứ vào tháng 8, người ta đổ xô đến để
xin làm phép xe. Đức Mẹ được tôn kính trong tháng này được mệnh danh là Đức Mẹ
“Bon Voyage”, tức Đức Mẹ không chỉ gìn giữ người ta trong lúc lái xe, đi đường
được “thượng lộ bình an”, mà còn lo cho được chiếu khán nhập cảnh để đi di dân
lao động ở nước ngoài. Trong dịp này thì dĩ nhiên các linh mục và các chủng sinh
phải “rẩy nước thánh” mệt nghỉ!
Xin “làm phép
xe” là chuyện rất phổ quát tại Phi luật tân. Đối với người công giáo ở bất cứ
đâu, “xin làm phép” một chiếc xe mới là chuyện có thể hiểu được. Đàng này, bất
cứ lúc nào cảm thấy không an toàn, người ta cũng có thể mang xe đến để xin linh
mục làm phép. Một linh mục làm việc lâu năm tại Phi luật tân kể lại rằng một
đêm nọ, có lẽ cũng đã sau 10 giờ tối, một đám thanh niên lái một chiếc xe “móp
đầu” và trầy trụa khắp nơi đến xin ông “làm phép”. Nhận thấy đây chỉ là một
thái độ “dị đoan”, vị linh mục từ chối không “làm phép xe” và nói rằng nếu cần
làm phép thì ông làm phép “con người” của họ để họ lái xe cẩn thận hơn chứ không phải
chiếc xe.
Bị các nhà lãnh
đạo Công giáo tại Phi luật tân lên án là “dị đoan” không kém đó là cái cảnh tự nguyện chịu đóng đinh diễn ra tại một làng quê cách thủ đô Manila
khoảng 60 cây số về hướng Bắc. Hàng năm, cứ vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, tức
Ngày Giáo hội công giáo tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, du khách trong
và ngoài nước lại đổ xô đến ngôi làng nói trên để xem cái cảnh ít nhứt không dưới
10 người tự nguyện chịu đóng đinh. Đa số những người tự nguyện “chịu nhục hình”
như thế đều giải thích rằng họ muốn có được may mắn, thành công và thịnh vượng
hơn trong công ăn việc làm.
Tựu trung, những
cử chỉ dị đoan của một số người công giáo Phi luật tân trên đây là một điển
hình của điều mà Kinh Thánh Tân Ước của Kitô giáo gọi là “buôn thần bán thánh”. Trong Anh ngữ, hành động này được gọi là “simony”. Kinh Thánh kể lại rằng thời
Giáo hội tiên khởi, nhận thấy các thánh tông đồ làm được một số phép lạ, có một
thày phù thủy tên là “Simon” liền xin
nhập Đạo. Ngày nọ, ông mang tiền đến xin một vị tông đồ ban quyền làm phép lạ
cho ông. Nhưng vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội lúc bấy giờ là thánh Phêro đã
lên tiếng sửa dạy ông: “Tiền bạc của anh
tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của
Thiên Chúa.” (Công vụ Tông đồ 8, 20)
Kể từ đó, trong
suốt hai ngàn năm lịch sử của Giáo hội, lúc nào và ở đâu cũng đều có chuyện
“buôn thần bán thánh”, nếu không thì có lẽ đã không có cuộc Cải Cách dẫn đến sự
ly khai của các Giáo hội Tin Lành.
Tôi đặc biệt
nghĩ đến một số đồ tể “Mafia” tại Ý, quốc gia cũng được mệnh danh là “công
giáo” nhứt tại Âu Châu. Có những tay trùm vẫn mỗi ngày đều đặn đến nhà thờ và rất
“hào phóng” trong việc dâng cúng cho Giáo hội. Chuyện này cũng không phải là xa
lạ tại một số nước Châu Mỹ Latinh, là nơi mà một số trùm ma túy vẫn tỏ ra là những
“con chiên ngoan đạo” và rộng rãi hơn ai hết. Có thể đó là một bình phong che đậy
cho hành động tội ác, mà cũng có thể là tàn tích của cái lối “buôn thần bán
thánh” của ông phù thủy Simon. Người ta tưởng có thể dùng đồng bạc vấy máu để gọi
là mua “Nước Thiên Đàng”.
Thật ra, theo
tôi nghĩ, ít hay nhiều, dường như trong mỗi một tín đồ, dù thuộc tôn giáo nào,
cũng đều có một chút máu của thày phù thủy Simon. Là một tín hữu Kitô, tôi vẫn
thường hay tự vấn lương tâm về mối quan hệ của tôi với Thiên Chúa và các thần
thánh. Hàng ngày, nhứt là khi gặp hoạn nạn hay ốm đau, tôi vẫn thường chạy đến
cầu cứu Chúa Mẹ và các thánh. Đó là điều chính đáng. Nhưng có lúc, tôi thấy
mình cũng dễ bị “lạng quạng” ngã vào thái độ “buôn thần bán thánh” không kém
thày phù thủy Simon trong lúc cầu nguyện.
Câu hỏi mà chủ tịch
của Hội Vô Thần Úc đại lợi, ông David Nicholls nêu ra trên đây phải là một lời
cảnh cáo cho tôi. Vào cuối thế kỷ 19, một trong những ông tổ của chủ nghĩa này
là triết gia Friedrich Nietzsche cũng đã từng thách thức các tín hữu Kitô khi
ông nhắn gởi: “Hỡi các tín hữu Kitô, các người hãy tỏ ra bộ mặt được cứu rỗi.”
Triết gia này hẳn muốn nói đến cái thái độ thiếu nhứt quán của các tín hữu Kitô
khiến cho người bên ngoài Kitô giáo chỉ thấy một gương mặt hoàn toàn bị bóp méo
của Thiên Chúa.
Tôi nghĩ đến gương
mặt bị bóp méo ấy của Thiên Chúa khi những kẻ tin Ngài nhân danh Ngài để “chiếm
đất” của các dân tộc khác hay để sát hại ngay cả những người vô tội thay vì mưu
tìm một cuộc sống hài hòa trong tình liên đới, “yêu người như chính mình”.
Tôi nghĩ đến
gương mặt bóp méo ấy của Thiên Chúa khi những người nhân danh là con cái Ngài lại
dùng chính cái “mác” Kitô hữu để lạm dụng niềm tin và lòng tốt của người khác
thay vì quảng bá chân dung từ ái và quảng đại của Ngài.
Tôi nghĩ đến
gương mặt bị bóp méo ấy của Thiên Chúa khi thế giới đầy dẫy thiên tai, bệnh tật,
chiến tranh, chết chóc và khổ đau, mà tôi lại ngoảnh mặt làm ngơ để đi vào đền
thờ cầu xin hai chữ “bình an” cho riêng mình thay vì xắn tay áo lên và đóng góp
một chút gì đó.
Tôi cũng nghĩ đến
gương mặt bị bóp méo ấy của Thiên Chúa khi tôi muốn “ra sức làm việc lành phúc
đức” không phải vì tình yêu thương vô vị lợi đối với tha nhân, mà chỉ để tìm kiếm
nước thiên đàng cho riêng mình hay chỉ để cho tên tôi được ghi vào một bảng vàng
cảm tạ nào đó của loài người mà thôi.
Tựu trung, tôi
nghĩ rằng gương mặt của Thiên Chúa bị bóp méo khi tôi chưa thực sự sống tinh thần
yêu thương và phục vụ vô vị lợi. Tinh thần ấy đòi hỏi tôi phải hành động như
Chúa Giêsu đã dạy là “đừng để cho tay trái
biết việc tay phải làm.” (Mt 6,4)
Bao lâu mà tôi
còn chưa nỗ lực trong việc thay đổi cách sống để có một thân thể lành mạnh, một
cuộc sống tích cực thì tôi không tin rằng mình có thể hết bệnh hay yêu đời chỉ
nhờ những lời nguyện xin.
Bao lâu mà tôi
còn chưa đặt những nhu cầu, những thống khổ, những vấn nạn, những nghèo đói, những
tai họa…của người khác vào vị trí ưu tiên trong những lời cầu xin của tôi thì
tôi không đáng trông chờ để được những biệt lệ.
Bởi vì, cũng như
ông David Nicholls đã phát biểu: “Trong
khi thế giới đầy đau khổ và chết chóc thì phải chăng không quá “nhảm nhí” khi hỏi
“có biết chìa khóa của tôi ở đâu không?”
17.11.2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét