Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Không đi không biết Thái Lan




Chu Thập 12.9.14

So với nhiều người Việt tỵ nạn khác, tôi đặt chân đến Thái Lan hơi muộn màng. Dù cho thiên đàng du lịch này có mời mọc cách mấy, tôi vẫn không thể xóa bỏ khỏi ký ức hình ảnh khủng khiếp của những vụ cướp biển nhắm vào người tỵ nạn Việt Nam diễn ra trong vịnh Thái Lan. Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã cho biết trong năm 1981, trên 80 phần trăm các tàu tỵ nạn lọt vào Vịnh Thái Lan đều bị cướp biển tấn công. Dựa trên lời kể của khoảng 12.500 thuyền nhân Việt Nam đến miền Nam Thái Lan trong khoảng thời gian này, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cho biết những tên cướp biển Thái đã sát hại 464 người, hãm hiếp 535 phụ nữ và bắt cóc 224 người khác. Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc nói rằng con số nạn nhân này có lẽ hơi khiêm tốn, bởi vì không nhắc đến những vụ tấn công qua đó không một nạn nhân nào còn sống sót.
Mặc dù không bao giờ có ý nghĩ đi Thái Lan để “trả thù dân tộc” như một số đàn ông và thanh niên Việt Nam thường nói đùa mỗi khi nhắc đến xứ sở này, tôi vẫn không có chút thiện cảm nào đối với dân tộc Thái. Nhưng cuối cùng, suy đi nghĩ lại, tôi thấy cần phải đặt chân đến đất nước này một lần mới mong hiểu được sự thật và giải tỏa được những ấm ức vẫn âm ỉ trong tâm hồn.
Tôi đến Thái Lan vào giữa tháng quốc gia này đang mừng sinh nhựt thứ 82 của hoàng hậu Sirikit Kitiyakara. Cờ xí và hình ảnh của bà được giăng mắc khắp nơi. Những người bạn Thái đi cùng chuyến bay với tôi nhắc đến bà với tất cả sự ngưỡng mộ, lòng kính trọng và thương mến, nhứt là vì các công cuộc từ thiện của bà đối với dân nghèo. Nhưng “mẫu hậu” Thái ít khi đứng một mình một cõi. Bên cạnh bà lúc nào cũng có quốc vương Bhumibol Adulyadej. Năm nay 86, quốc vương có thời gian trị vì lâu nhứt thế giới này, lại được thần dân Thái tôn kính chẳng khác nào một vị thần. Ở bất cứ hang cùng ngõ hẻm nào người ta cũng thấy có hình ảnh của ông dưới nhiều dung mạo khác nhau: khi thì ông xuất hiện như một thanh niên bắn súng, cỡi ngựa, chèo thuyền, chơi thể thao, tham gia vào mọi sinh hoạt của cuộc sống người dân...lúc thì uy nghiêm ngự trên ngai vua bên cạnh hoàng hậu. Không chỉ có ảnh hưởng trong sinh hoạt chính trị, vị vua thứ 9 của triều đại Rama này càng được thần dân Thái kính trọng, ngưỡng mộ và yêu mến vì những hoạt động từ thiện không ngừng nghỉ của ông. Là một tỷ phú, ông đã bỏ tiền túi ra để tài trợ cho hàng chục ngàn dự án phát triển cho người nghèo, nhứt là các sắc dân thiểu số trên miền núi. Những người bạn Thái đã giới thiệu tôi đến một trung tâm nghỉ mát trên vùng cao nguyên ở phía Bắc do chính những người thuộc sắc tộc thiểu số điều khiển và với sự tài trợ của nhà vua. Mọi thứ đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “bền vững” (sustainability): nước từ một ngọn thác được sử dụng để chạy máy thủy điện, trồng hoa và rau xanh cũng như nuôi cá. Một ngày nghỉ ở đây cho tôi cảm tưởng: không thể sống ở đây mà không cảm thấy an bình và hạnh phúc!
Người dân Thái tôn thờ quốc vương và hoàng hậu của họ đến độ trên ngọn núi cao hơn 2 ngàn thước gần nơi tôi dừng chân, quân đội Thái đã cho xây cất hai tòa “Bảo Tháp” (pagoda) cao ngất trời. Khách du lịch đến đây được giải thích rằng hai tòa tháp này sẽ là nơi cất giữ di cốt thánh của quốc vương và hoàng hậu.
Khi tôi nêu thắc mắc về vấn đề kế vị, những người bạn Thái xem ra không “sốt sắng” cho lắm khi phải nói về chuyện này. Tôi đành vào Google để tìm hiểu và biết rằng quốc vương Thái có 4 người con: một trai, ba gái. Trên nguyên tắc, thái tử Maha Vajiralongkorn, năm nay 62 tuổi, là người sẽ lên kế vị vua cha. Nhưng ông hoàng này lại vướng mắc vào quá nhiều tai tiếng từ chuyện cờ bạc đến bê bối trong đời sống gia đình. Dù vậy, do luật “tội khi quân” (lèse-majesté), không ai dám công khai đề cập đến vấn đề này. Tôi nghe nói rằng nếu xúc phạm đến hoàng gia, người dân Thái có thể bị tù từ 3 đến 15 năm. Năm 2002, một số những tờ báo ngoại quốc có uy tín như Tạp chí Kinh tế Viễn đông (Far Eastern Economic Review) hay Tạp chí Kinh tế (The Economist) có đề cập đến những chuyện lem nhem và tính khí bất thường của thái tử Vajiralongkorn. Cả hai số báo đều bị cấm phát hành tại Thái Lan.
Tôi hiểu được tâm trạng của những người bạn Thái cho nên không muốn khai thác về vấn đề này. Theo suy luận của tôi, nếu thái tử Vajiralongkorn không được vua cha tín nhiệm và nếu Hiến Pháp Thái không cho phép một công chúa lên kế vị, thì rất có thể vị quốc vương trị vì lâu nhứt thế giới này sẽ tuyên bố cho cáo chung chế độ quân chủ tại Thái Lan sau khi ông qua đời.
Nhưng liệu “thần dân” Thái có sẵn sàng đón nhận việc hủy bỏ chế độ quân chủ không? Với họ, quân chủ không chỉ là một phần của lịch sử đáng tự hào của đất nước, mà còn là “linh hồn” của dân tộc. Xem cách thế họ tôn kính, ngưỡng mộ và yêu mến quốc vương và hoàng hậu, tôi nghĩ rằng hai vị nói riêng và hoàng tộc nói chung, là hiện thân của lòng từ bi, cốt lõi của Phật Giáo mà đại đa số người dân Thái đều tin và thực hành với tất cả thành tâm.
Trong những ngày rong chơi ở Thái Lan, tôi đã được đưa đi viếng hầu hết những ngôi chùa nổi tiếng nhứt của nước này. Hầu như ngày nào và ngôi chùa nào cũng có đông người kính viếng. Người Thái không vào chùa như một khách du lịch, mà với tất cả tấm lòng thành tín của một tín đồ.
Nhưng người Thái không chỉ bày tỏ tấm lòng thành tín nơi cửa chùa hay đối với các vị tăng lữ. Họ sống cái “tâm Phật” ở mọi nơi và đối với mọi người. Tôi cảm nhận được cái “tâm” ấy qua cử chỉ “vái chào” của người Thái. Cứ gặp nhau hay từ giã nhau, bất kể quen lạ cũng đều phải “vái chào”: hai tay chắp lại, để trên trán hay dưới ngực tùy theo tuổi tác, kèm theo nụ cười thân thiện và cúi chào. Cử chỉ này gợi lên trong đầu tôi câu nói quen thuộc trong Phật Giáo: cứ bỏ gươm xuống là thành Phật! Làm sao chắp tay lại, cúi chào người khác mà không vứt bỏ đi gươm giáo của đố kỵ, hận thù trong tâm hồn mình? Bây giờ thì tôi mới ngộ ra được tại sao vương quốc chưa từng bị chiến tranh này  được gọi là “Thailand”, tức đất nước của Thân Thiện và Thái Bình.
Thái bình cho nên cũng thịnh vượng.  Được xếp hàng thứ hai chỉ sau Singapore trong khối Đông Nam Á về mức sống, Thái Lan dưới mắt tôi là một nước không chỉ giàu về của cải vật chất mà còn giàu về tình người. Ra đường, tôi không sợ bị cướp giựt. Đi mua sắm tôi không sợ bị lường gạt. Vào các khu chợ bình dân để ăn uống hay mua quà vặt, tôi không sợ bị chửi như tát nước vào mặt. Lúc nào tôi cũng trang bị cho mình cử chỉ “vái chào” là coi như mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp.
Cảm thấy an tâm khi đi giao dịch và mua sắm, tôi cũng cảm thấy an toàn khi đi đường: đường sá ở Thái Lan nhiều và rộng. Dĩ nhiên, kẹt xe vẫn là chuyện thường ngày ở huyện tại các nước Á Châu. Nhưng không phải hít bụi, không phải nghe tiếng kèn kêu đinh tai nhức óc, không bị chen lấn xô đẩy trong lòng đường...là cảm thấy mãn nguyện khi đi du lịch rồi.
Thua kém Singapore một bậc về mức sống, Thái Lan dường như cũng  muốn đuổi kịp quốc gia hải đảo này về kỷ luật. Chỉ khác một điều: ở Singapore, người dân phải tuân theo một kỷ luật sắt, còn tại Thái Lan xem ra người dân tự giác nhiều hơn. Xem ra người dân Thái làm bất cứ điều gì cũng đều nghĩ đến  “quả báo” đối với bản thân cũng như gia đình. Người bạn Thái đi cùng chuyến cho biết: như bất cứ thanh niên Thái nào, anh cũng đã từng vào chùa tu một thời gian để gọi là làm nhẹ bớt “quả báo” mà cha mẹ anh đã và đang phải chịu vì những thiếu sót trong cuộc sống của họ. Không biết có phải vì sợ “quả báo” không, mà đi dọc đường khắp nơi trên đất Thái, tôi không bao giờ hoặc ít khi gặp cái cảnh xả rác bừa bãi. 
Tôn trọng người khác, tuân giữ kỷ luật và trật tự công cộng, người dân Thái có ý thức cao về đạo đức. Trong chuyến đi vừa qua, tôi đã được người bạn Thái đón về gia đình ở tận miền Nam. Tại đây nhằm mùa trái cây, tôi được dịp thưởng thức hầu hết trái cây miền nhiệt đới tươi ngon mà không sợ ăn phải hóa chất. Xét cho cùng, người nông dân Thái không vì chút lợi lộc mà lừa gạt khách hàng. Nhưng ý nghĩa nhứt và được chờ đợi nhứt trong chuyến đi vẫn là chặng dừng chân trong hai tỉnh Chiang Mai và Chiang Rai, Bắc Thái. Người tài xế kiêm hướng dẫn viên du lịch đã đưa tôi đến Tam Giác Vàng (Golden Triangle), tức biên giới giữa ba nước Thái Lan, Miến Điện và Lào. Đứng bên bờ sông Mê Kông, tôi được người tài xế hướng dẫn để nhìn về hướng Bắc. Chỉ tay về một tòa nhà đồ sộ, ông giải thích rằng đó là Casino của Miến Điện (Burma hay Myanmar). Hướng về một khu nhà trông có vẻ còn vĩ đại hơn nằm ở trước mặt và bên kia sông, ông cho biết đó là Casino của Lào. Tôi có nghe nói ở biên giới Việt Miên dường như cũng có một Casino vĩ đại như thế.
Trên đường về, người tài xế kể cho tôi nghe rằng cách đây không lâu ông có chở một số người Thái đến Tam Giác Vàng này để họ sang phía bên kia sông đánh bài. Ông nói: lúc ra đi họ rất hăm hở, nhưng khi trở về mặt mũi ai cũng héo hắt, buồn hiu. Rồi ông hãnh diện kết luận: Thái Lan không có Casino vì Thái Lan là xứ Phật giáo!
Tôi không cảm thấy được thuyết phục với biện luận này. Bởi lẽ Miến Điện, Lào, Cao Miên không phải là những  xứ Phật giáo sao? Cùng là những quốc gia chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo, nhưng các nước này và Thái Lan có chế độ cai trị khác nhau. Miến Điện đã từng bị đặt dưới chế độ quân phiệt độc tài. Lào vẫn tiếp tục bị kèm kẹp dưới chế độ cộng sản. Cao Miên thì đeo vào bộ mặt dân chủ để che đậy cái  “cốt” cộng sản độc tài. Nền tảng đạo đức của Phật giáo, nhờ một chế độ dân chủ có thực chất và nhứt là nhờ ảnh hưởng của một quốc vương thấm nhuần đạo lý, đã ăn sâu vào cách sống của người dân Thái. Đây mới thực sự là lý do khiến cho Casino, đầu mối của mọi thứ tội ác làm tan gia bại sản của bao nhiêu gia đình và đánh đổ mọi giá trị đạo đức, đã không thể hiện hữu được trên đất Thái. Nói như thế không có nghĩa là ở đất nước Thái bình này không có tệ nạn cờ bạc. Nhưng ít ra, nhờ không được hợp pháp hóa mà nạn bài bạc đã không biến đất nước Thái bình này thành một sòng bạc để các tổ chức tội phạm rửa tiền hoặc đục khoét nền tảng đạo đức.
Có một số người Thái, như trường hợp ông thái tử Vajiralongkorn đã vướng mắc vào chuyện đỏ đen, nhưng nhìn chung đại đa số người dân Thái, nhờ ảnh hưởng của Phật giáo như người tài xế kiêm hướng dẫn viên du lịch đã khẳng định, vẫn xem chuyện bài bạc không những như một hoạt động bất hợp pháp, mà còn trái với luân thường đạo lý. Tôi cũng nghĩ như thế về chuyện cướp biển đã xảy ra trong Vịnh Thái Lan hồi cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80. Có một thiểu số ngư dân Thái đã biến thành thảo khấu để tấn công, hãm hiếp và sát hại người tỵ nạn Việt Nam.
Nhìn chung, đại đa số người dân Thái, đều là những người hiền hòa, hiếu khách, chân tình và “đạo đức”. Bài học mà tôi thực hành nhiều nhất trong hai tuần trên đất Thái chính là học cách đáp lễ lại những cung cách cao quý của người Thái.
Vào năm 1988 một người quen đến Thái Lan đã không cầm được nước mắt khi nghĩ đến quê nhà. Hôm nay, sau một phần tư thế kỷ, tôi nhìn Thái Lan, nghĩ đến Việt Nam mà thấy càng đau lòng hơn. Biết Thái Lan để thấy rằng không phải “ao nhà vẫn hơn”.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét