Chu Thập, 30/8/2010
Đầu mùa Xuân, lái xe trên những con đường quê nhỏ, thỉnh thoảng tôi lâm
vào một cảnh kẹt xe bất thường. Đường vắng, xe đang chạy nhanh, bỗng giảm tốc độ
và có khi dừng hẳn lại. Cứ tưởng phía trước có tai nạn hoặc có công tác kiều lộ
như chặt cây, sửa đường. Đến nơi mới vỡ lẽ. Thì ra có một gia đình “nhà vịt” gồm
cha mẹ và con cái đang thủng thẳng băng qua đường. Tôi chưa từng thấy giống vịt
mà người Úc gọi là “woodduck” (vịt rừng) này ở Việt nam bao giờ. Phục thái độ “kiên
nhẫn” và “nhường nhịn” của người Úc đối với súc vật bao nhiêu, tôi lại càng thấy
cuộc “diễu hành” của gia đình vịt “dễ thương” bấy nhiêu. Trong cảnh tượng này,
“thú vật” được tôi chú ý đến nhiều nhứt
là “vịt cha”. Ở Việt nam, cái giống vịt được nuôi thành bày để lấy trứng đã
hoàn toàn đánh mất bản năng làm cha mẹ. Vịt cái chỉ còn là một cái máy đẻ. Còn
vịt đực thì dĩ nhiên sau khi làm xong nghĩa vụ truyền giống, cũng quên mất sứ mệnh
làm cha của mình. Ngay cả với cái giống “ngan”, mà người miền Nam gọi là vịt
xiêm, mặc dù được nuôi như gia súc, con đực cũng chẳng cần biết mình đã làm
cha. Vịt mẹ có mang nặng đẻ đau và ốm o gầy mòn vì 21 ngày ấp trứng cũng mặc kệ,
vịt đực vẫn cứ mãi mãi là anh chàng “độc thân vui tính”.
Trong họ nhà vịt, có lẽ chỉ có chú vịt rừng là còn biết “trách nhiệm” đối
với vợ con. Chú không chỉ trung thành với vợ, mà còn luôn làm tròn bổn phận đối
với con. Cứ nhìn chú luôn sát cánh bên cạnh để bảo vệ vợ con thì tôi tưởng
không người chồng người cha nào mà không cảm thấy “xốn xang”.
Về trách nhiệm làm “chồng và cha tốt”
ấy của vịt rừng, tôi thấy cái giống chim cò mà tôi chưa tìm ra tên gọi chính
xác nên tôi tạm đặt tên là “water chicken” (gà nước) cũng không thua kém bao
nhiêu. Gọi là chim hay cò thì chính xác hơn. Động vật có cánh này có đôi chân
thật mảnh mai. Chúng di chuyển trông chẳng khác nào các vũ công ballet. Không
có một cái cổ dài như cò, nhìn xa thì hao hao giống hải âu và cũng không sống
thành một bầy lớn nên chúng có vẻ không gây được sự chú ý, nhưng tiếng kêu của
chúng thì chát chúa chẳng khác nào tiếng kêu “oang oác” của giống “le le” ở miền
Trung của tôi. Cứ bước vào mùa Xuân, đi một vòng xung quanh bờ hồ chỗ tôi ở, thế
nào tôi cũng gặp vài gia đình giống “gà nước” này. Không đông bằng gia đình họ
nhà vịt rừng, giống “gà nước” này chỉ có tối đa 4 đứa con. Cứ mỗi lần bắt gặp
chúng đang đi ăn bên cạnh bờ hồ, tôi không thể không dừng lại để chiêm ngắm.
Thông thường, Gà mẹ và Gà con kiếm ăn ở một góc, còn Gà cha thì đứng canh chừng
cách đó khoảng 10, 20 thước. Có khi Gà cha bay lên một cành cây cao để quan sát. Gà cha
dường như không chú trọng đến chuyện kiếm ăn. Nhiệm vụ của chú chàng là đứng đó
để canh gác và báo động. Hễ có người đến gần là chú dậm chân hay “gân cổ” hét
lên cho gà mẹ và đàn con tìm đường trú ẩn.
Trong thế giới động vật, có quá nhiều “vật
cha” đáng làm gương cho loài người. Nổi tiếng nhứt trong số các “vật cha” gương mẫu được “vinh danh” trên
Internet, tôi thấy có chú ngựa biển (còn gọi là hải mã). Theo đúng nghĩa, chỉ với
ngựa biển đực, người ta mới có thể nói đến chuyện “cha sinh mẹ dưỡng”. Thật vậy, ngựa biển cái đẻ trứng vào diều của
con đực và chính con đực sẽ làm cho trứng được thụ thai và ấp cho đến khi trứng
nở.
Riêng cái giống cá trê “đầu cứng” (hardhead catfish) thì lại ngậm vào miệng
những cái trứng đã được thụ tinh và ấp cho đến 60 ngày. Trong suốt thời gian
này, cá trê cha phải nhịn ăn. Có ai hy sinh bằng chú không?
Cũng có nhiều giống chim đực cũng đáng ca ngợi không kém: cứ đêm đến, con
đực thay thế cho con mái để ấp trứng.
Nhưng cảm động nhứt đối với tôi có lẽ là “tình cha” của giống chim cánh cụt
lớn ở Nam Cực mà người Úc gọi là “emperor
penguin”. Năm 2005, tôi đã có dịp xem cuốn phim tài liệu có tựa đề “The March of the Penguins” (Cuộc hành
trình của những con chim cánh cụt). Thỉnh thoảng tôi cũng xem lại cuốn phim này
mà vẫn không hết bùi ngùi xúc động. Cuốn phim do đạo diễn Pháp Luc Jacquet thực
hiện và đoạt giải Academy Award này thuật
lại cuộc hành trình muôn thuở vì sự sống của loài chim cánh cụt. Theo lời người
kể chuyện thì từ hằng triệu triệu năm nay, mỗi năm cứ đến tháng 3, do một tiếng
gọi thầm kín rất mực thôi thúc của bản năng, tất cả mọi con chim cánh cụt đều tập
trung lại một chỗ và bắt đầu một cuộc hành trình hai tuần lễ giữa băng tuyết để
đến một Điểm Hẹn. Tại đây, lại cũng theo tiếng gọi của bản năng, chúng tìm nhau
cho đến khi gặp được “bạn tình” của mình. Từng cặp “hẹn hò” nhau và sau tuần trăng mật, kết quả của “tình yêu” là một
cái trứng và duy nhứt chỉ một cái trứng chào đời. Chỉ sau một thời gian ngắn,
hoa trái của tình yêu ấy được chuyền từ mẹ sang cha. Đây là khởi đầu của một thời
kỳ vô cùng gian lao mà chim đực phải trải qua. Sau khi giao trứng cho chồng, tất
cả mọi con chim cái đều lên đường ra biển để kiếm ăn. Từ điểm hẹn của tình yêu
đến nơi kiếm ăn, con cái phải mất đến cả tháng trời. Vì vậy, sau khi vội vã ăn
cho thật no và lạch bạch trở về thì cái trứng đã nở.
Trong suốt hai tháng này, đám mày râu cánh cụt phải kẹp cái trứng vào giữa
hai chân và đứng chịu trận giữa những cơn bão tuyết và cái lạnh có khi xuống đến
80 độ dưới 0 độ. Nhiệm vụ của mấy ông bố tương lai là bằng mọi giá, không được
để cho trứng chạm mặt băng và luôn được phủ kín dưới bụng. Những chú lần đầu
tiên được làm cha, vì chưa có kinh nghiệm, lỡ để lọt cái trứng ra khỏi hai bàn
chân, trứng nứt vì lạnh, chỉ biết đứng đó mà “khóc”. Mà dường như cái giống đực
này biết khóc thật. Cứ mỗi lần một “thai nhi” bị chết như thế, những con vật tưởng
sẽ được làm cha biểu lộ một nỗi buồn mà người xem phim cũng có thể cảm nhận được.
“Thai nhi” là một sự sống cao quí đến độ tất cả cái đám chim đực lúc nào cũng đứng
nép sát vào nhau để chuyền hơi ấm cho nhau hầu bảo vệ đứa con của mình.
Đúng thời hạn “khai hoa nở nhụy”, đứa con đập vỡ cái trứng và đưa cái đầu
non dại ra khỏi hai bàn chân của chim cha. Đây là giây phút kỳ diệu nhứt của
tình phụ tử: mặc dù đã nhịn đói trong ròng rã hai tháng, chim cha vẫn cố gắng
dành những giọt sữa cuối cùng được chắt lọc từ tấm thân gầy yếu của mình để mớm
cho đứa con. Không gì đẹp bằng khi chim con đưa mỏ vào họng cha để đón lấy dòng
sữa ấy! Chim Cha cũng được cái vinh dự mà ngay cả con người cũng không thể có
được: Chim Cha là “người” đầu tiên được nhìn thấy con mình.
Cũng chính vào lúc ấy, đàn chim mẹ đã về đến nơi sau hai tháng đi kiếm ăn
và tìm đủ lương thực dự trữ cho bản thân và con mình. Từ đó, cha mẹ chim cánh cụt
thay phiên nhau để nuôi dưỡng và “giáo dục” đứa con cho đến lúc nó đủ lông đủ
cánh để có thể tham gia vào “đời sống xã hội” và tự đi kiếm ăn một mình. Sau
khi hoàn thành nhiệm vụ lưu truyền sự sống, đàn chim cánh cụt chia tay nhau, ai
về “nhà” nấy vào tháng 12. Đến tháng 3 năm tới, chúng lại lên đường tham gia
vào cuộc hành trình lưu truyền sự sống.
Mỗi lần xem lại cuốn phim này, tôi lại nghĩ đến cha tôi. Cha tôi chưa từng
nghe nói đến một “Ngày của Cha”. Tôi
cũng chưa từng có một ngày dành riêng để tưởng nhớ về cha tôi. Thật ra, tôi
cũng chẳng có gì để tự hào về cha mình. Tôi nhớ lúc bắt đầu học tiểu học, trong
bất cứ tờ khai lý lịch trích dọc trích ngang nào, khi viết về cha mình, tôi
cũng chỉ biết điền có mỗi hai chữ “làm
nông”. “Làm nông” ở cái thời thập niên 1950, 60…cũng đồng nghĩa với “mù chữ”
hoặc cùng lắm tốt nghiệp “bình dân học vụ” và biết đọc biết viết. Có lẽ nhờ biết
đọc biết viết hơn một số người trong làng trong xã và nhờ trau dồi được một số
kiến thức từ các kinh sách cổ điển như Thủy Hử, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc
Chí, Đông Châu Liệt quốc… mà cha tôi được làm tới chức “xã” dưới thời Pháp thuộc.
Có lúc tôi cũng hãnh diện một chút vì cái tước hiệu ấy của cha tôi. Nhưng cái cốt
nông dân quanh năm chân lấm tay bùn của cha tôi thì vẫn mãi mãi đính kết với
con người của ông. Về sau này, khi không còn mặc áo dài và đội khăn đóng cũng
như biết mặc áo sơ mi, quần tây và đi
xanh-đan, cha tôi cũng vẫn là người nông dân chất phác và quê mùa.
Tôi chẳng có gì để hãnh diện về cha tôi. Chẳng ai chọn một chủng tộc để
sinh ra. Cũng chẳng ai chọn một người cha để chào đời. Muốn hay không thì tôi
cũng đã có mặt trên đời này với một định mệnh là di sản máu mủ mà cha tôi đã để
lại cho tôi. Vóc dáng của tôi, khuôn mặt của tôi, trí khôn của tôi cũng như
tính tình của tôi là một phần của cha tôi. Có người bảo tôi giống cha tôi như
đúc từ hình dáng, nụ cười, cách đi đứng cho đến tính tình. Có muốn hay không
tôi cũng không thay đổi được. Đó là một phần định mệnh của tôi.
Có thể tôi không hãnh diện mấy vì cha tôi là một người nông dân ít học. Có
thể cha tôi cũng chẳng yêu thương, săn sóc tôi, chiều chuộng tôi như một người
cha của thời đại. Nhưng có một điều tôi
biết chắc là cha tôi không hề biết đến
“chương trình kế hoạch hóa gia đình”. Nếu ông biết điều đó thì chắc chắn
đứa con thứ 10 trong gia đình là tôi sẽ không bao giờ có mặt trong cõi đời này.
Do đó, có thể tôi không tìm thấy điều gì để tự hào về cha tôi. Nhưng tôi tin chắc
một điều là cha tôi đã trân quý sự sống và đã lưu truyền sự sống ấy lại cho
tôi. Mẹ tôi mang nặng đẻ đau, nhưng cha tôi đã “sinh” ra tôi.
Ngày của Cha là ngày để tôi tri ân cha tôi. Dù cha tôi có thế nào đi nữa,
ông vẫn là cha tôi, là người đã lưu truyền sự sống cho tôi.
Ngày của Cha, đối với tôi, cũng là Ngày của Sự Sống. Ngày của Cha, tôi
nghĩ đến không biết bao nhiêu đứa trẻ không được quyền chào đời. Tôi cũng nghĩ
đến không biết bao nhiêu đứa trẻ chào đời nhưng không được cha nhìn nhận. Tôi
cũng nghĩ đến không biết bao nhiêu đứa trẻ mà vì hoàn cảnh, không được hưởng những
giây phút ngọt ngào mà những con chim cánh cụt con, những con cá trê con, những
con “gà nước” con, những con hải mã con, hay những con vịt rừng con…luôn được
hưởng. Tuy những con vật bé nhỏ ấy chỉ được sống bên cạnh cha trong thời gian
ngắn vừa đến lúc biết “tự lập”, nhưng tôi nghĩ nếu như ai ai cũng có một “hành
trang vào đời” có đầy đủ “cha sinh mẹ dưỡng” như chúng, thì sau này cuộc đời có
lầm than cách mấy, con trẻ vẫn có đủ nghị lực để vươn lên và trưởng thành, tiếp
tục làm người cha, người mẹ tuyệt vời. Và đương nhiên tôi cũng nghĩ đến không biết
bao nhiêu đứa trẻ với thân phận con nuôi, khi lớn lên đã không quản ngại gian
lao đau khổ để tìm ra gốc tích của mình. Quả tình, tôi thấy mình thật may mắn,
tôi biết ai là cha tôi.
Ngày của Cha cũng là ngày mời gọi tôi chấp nhận chính mình. Cha tôi không
phải là bậc quân vương quyền quý cũng chẳng là một người tài ba xuất chúng.
Nhưng sự sống mà cha tôi đã lưu truyền cho tôi là độc nhứt vô nhị. Không có một
người thứ hai giống như tôi trên trần gian này. Tôi không phải là một người
thông minh đĩnh đạc. Nhưng tôi vẫn là tôi vì cha tôi đã sinh tôi ra như thế.
Ngày của Cha nhắc nhở tôi tri ân cha, trân quý sự sống và chấp nhận bản
thân. Cha tôi không để lại cho tôi chum vàng. Nhưng với trái chanh tôi đang có,
tôi vẫn có thể pha được một ly nước; với củ khoai tôi có được, tôi vẫn có thể
luộc hay nướng lên để thưởng thức.
Tôi tri ân cha tôi vì đã cho tôi được có mặt trên đời để vui hưởng cuộc sống.
30.8.2010
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét