Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014

Những Kẻ Khốn Khổ



                                                                                  Chu Thập
29.7.2010


Thời Trung Học, tác phẩm cổ điển làm tôi say mê nhứt là quyển tiểu thuyết “Les Misérables” (Những Kẻ Khốn Khổ) của văn hào Pháp Victor Hugo vào thế kỷ thứ 19. Nội dung của câu chuyện được dựng thành phim này thì ai cũng biết: nhân vật chính là Jean Valjean được trả tự do sau 19 năm bị giam tại một trại khổ sai ở miền Nam nước Pháp. Thật ra, ông chỉ bị kết án 5 năm tù vì tội ăn cắp bánh mì cho một người em gái đang chết đói và gia đình của cô. Ông phải ở thêm 14 năm khác vì tội trốn tù. Sau khi ra tù, bị mọi người xua đuổi, ông phải sống lang thang đầu đường xó chợ. Một hôm, ông tìm đến một nhà thờ và được một vị Giám mục tận tình giúp đỡ. Nhưng lúc ra đi, ông lại cuỗm của vị Giám mục vài chân đèn bằng bạc với hy vọng bán được và có thêm chút tiền tiêu vặt. Ông bị cảnh sát bắt. Nhưng vị Giám mục đứng ra bảo lãnh và nói rằng chính ngài là người đã tặng mấy cái chân đèn cho ông. Với cử chỉ ấy, vị Giám mục chỉ xin ông hứa một điều là phải sống lương thiện. Jean Valjean đã giữ lời hứa ấy: ông đổi tên, làm lại cuộc đời, trở thành một người giàu có và được bầu làm thị trưởng của một thành phố. Suốt cuộc đời còn lại của ông thị trưởng dưới cái tên Madeleine là một chuỗi những hoạt động giúp đỡ và bênh vực người nghèo và những kẻ khốn khổ phải lâm vào hoàn cảnh mà ông đã từng trải qua.
Chuyện tù tội thứ hai đã làm say mê tuổi thanh niên của tôi là quyển tiểu thuyết tự thuật của nhà văn Pháp Henri Charrière có tựa đề là “Papillon” (Con Bướm, vì trên ngực của ông có xâm hình con bướm). Bản dịch Việt ngữ đã xuất hiện tại Việt nam vào đầu thập niên 1970. Cũng  như Jean Valjean, người  phải trải qua 19 năm đọa đày chỉ vì mấy ổ bánh mì, “Papillon” cũng bị kết án khổ sai chung thân vì một tội giết người mà ông không hề phạm. Năm 1931, sau một thời gian bị giam tại Caen, miền Bắc nước Pháp, ông bị đưa xuống tàu để chuyển sang một nhà tù khác tại một thuộc địa của Pháp ở Châu Mỹ Latinh. Từ đây, Papillon bắt đầu cuộc đào thoát kéo dài 14 năm. Từ nước này trốn sang nước khác, ông bị giam tại hầu hết các nhà tù ở Nam Mỹ và cuối cùng tìm được tự do tại Venezuela.
Câu chuyện đào thoát liên tục trong 14 năm được Henri Charrière nhìn nhận là của chính mình. Nhưng cũng có người cho rằng tất cả những biến cố và nhà tù được mô tả trong cuốn sách đều không phù hợp với thực tế. Có người lại bảo rằng Henri Charrière chỉ là người kể lại những câu chuyện mà ông đã nghe được trong tù. Nhưng dù cho câu chuyện không phải là cuộc phiêu lưu của chính tác giả hoặc chỉ là chuyện hư cấu, đọc “Papillon”, tôi vẫn nhận ra một điều là con người vốn có một sức chịu đựng và một ý chí phi thường để có thể thắng vượt được nghịch cảnh và bất công mà người khác tạo ra cho mình.
Người Việt nam hải ngoại nào chắc chắn cũng phải khâm phục cái ý chí phi thường ấy của con “Ó Đen” Lý Tống. Cuộc đào thoát khỏi ngục tù cộng sản của Ó đen Lý Tống cũng không thua kém bao nhiêu so với cuộc phiêu lưu 14 năm của con bướm Papillon.
Chắc chắn trong lịch sử lao tù cộng sản sau năm 1975, có rất nhiều câu chuyện vượt thoát rất ly kỳ. Nhưng đáng chú ý hơn cả là cuộc đào thoát của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, tác giả của DVD về tội ác của Hồ Chí Minh. Tuy không thành công, nhưng những gì mà linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã nếm trải trong và sau cuộc vượt thoát khỏi trại tù Thanh Cẩm cũng  xứng đáng để trở thành đề tài cho một cuốn tiểu thuyết tự thuật như Papillon. Cuộc đào thoát thất bại. Linh mục Lễ và 3 người bạn tù khác bị bắt lại. Đây là cái giá mà vị linh mục này phải trả: “Những cú đấm đá đầu tiên đau điếng cả người, nhưng sau một chập tôi không còn nghe đau đớn nữa vì toàn thân tôi đã tê dại. Những cú đòn về sau, tôi chỉ còn cảm giác qua chấn động, như âm thanh của một quả bóng được đá dội vào tường. Tôi không còn biết đến cảnh vật chung quanh, mắt nhắm cắn răng chịu đòn không hề kêu la một tiếng. Trong cảnh hỗn loạn của những tiếng la hét man dại đó lại có giọng quát khá to của một người nào đó mà tôi không còn đủ tâm trí để nhận ra, tôi chỉ đoán là của ông trại trưởng: “Thôi, tôi bảo các đồng chí thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi!” Sau tiếng quát đó, chẳng những chúng không dừng tay mà lại càng đấm đá dữ dội hơn. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cảnh cán bộ đánh tù trong ngục tù cộng sản. Tôi hiểu rằng những lời ngăn can kia là một thứ ám hiệu cho cán bộ càng hành hạ tù tàn nhẫn hơn, trong khi đó người ngoài nhìn vào vẫn tưởng rằng Đảng rất nhân từ, vì người thay mặt cho Đảng đã lên tiếng ngăn can.” (Nguyễn Hữu Lễ, Tôi Phải Sống, trg. 414- 415)
Tôi ngưỡng mộ ý chí bất khuất của linh mục Nguyễn Hữu Lễ. Tôi lại càng cảm phục sự chịu đựng của vị linh mục này sau cuộc vượt thoát bất thành đó. Hẳn phải có một ý chí muốn sống mãnh liệt linh mục này mới có thể chịu đựng được bao nhiêu nhục hình dã man trong suốt thời gian ngục tù còn lại hầu mới có thể tâm niệm “tôi phải sống” và làm chứng trước thế giới về chế độ lao tù độc ác của chế độ cộng sản Việt nam.
Vượt thoát khỏi ngục tù bất công là một hình ảnh hào hùng. Nhưng can đảm và anh hùng không kém là những người kiên trì chịu đựng và đứng vững trước cuộc sống tù đày tàn bạo và độc ác. Thế giới đã kính cẩn nghiêng mình trước gương anh hùng ấy của ông Nelson Mandela, người đã trải qua 27 năm liên tục trong nhà tù của chế độ phân biệt chủng tộc tại Nam Phi.
Chuyện chế độ Cộng sản Việt nam đạt thành tích “vô địch” về số lượng “tiến sĩ” có thể mãi mãi là chuyện “khoa học giả tưởng”, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng Cộng sản là một chế độ đạt giải “quán quân” về khả năng sản xuất…tù nhân! Không chỉ là tù nhân thường thường bậc trung đâu nhé. Đa số là những vị tù anh hùng đáng kính mà cả thế giới cũng phải ngưỡng mộ. Chúng ta có một “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện, người đã trải qua tổng cộng 27 năm trong các nhà tù cộng sản Việt nam. Chúng ta cũng có một linh mục Nguyễn văn Lý,  tù nhân lương tâm với tổng cộng 14 năm vào tù ra khám.
Chúng ta không thể không nhắc đến tù nhân Nguyễn Hữu Luyện, người đại úy biệt kịch dù của Việt nam cộng hòa được gởi ra Bắc thi hành những điệp vụ bí mật và bị bắt giam từ năm 1966 cho đến năm 1987. Trong tuyển tập “Bè Bạn Gần Xa”, ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc đã mô tả ông như một người tù bất khuất mà không một cường lực, một sự đe dọa hay một nỗi đói khát nào có thể lay chuyển được ý chí sắt đá.
Nhưng nếu sau này, sách kỷ lục thế giới Guiness Book có tìm một người tù chính trị đạt thành tích bị giam giữ lâu nhứt thì người đó hẳn phải là ông Trương văn Sương, người mà với ý chí bất khuất cuối cùng đã bẻ gẫy và chiến thắng sự tàn bạo độc ác của người cộng sản. Không còn cách nào khuất phục ông, chế độ cộng sản đành phải đầu hàng và tuyên bố “tạm tha” cho ông sau 33 năm  bị giam giữ trong những điều kiện tàn ác dã man nhứt.
Thật ra cuộc đời tù đày của ông chưa hẳn đã chấm dứt. Ra khỏi nhà tù nhỏ để bị nhốt vào nhà tù lớn, giờ đây ông Sương còn phải đối đầu với không biết bao nhiêu mất mát mà không gì có thể bù đắp được: ngoài những đứa con thơ qua đời khi người cha vắng bóng, ông Sương lại còn phải chịu một cái tang quá đau thương. Người bạn đời của ông qua đời mà ông không hề hay biết. Bước vào căn nhà xiêu quẹo, tưởng sẽ được vòng tay của người vợ thân yêu ôm lấy, ông đã phải òa khóc khi nhìn thấy di ảnh của người quá cố trên bàn thờ. Làm sao chúng ta không cùng khóc với ông trước một nỗi đau không bút mực nào tả xiết ấy?
Nhưng tôi tin tưởng rằng người tù bất khuất này cũng sẽ đứng vững trước những nghịch cảnh trong nhà tù lớn. Bởi kẻ chiến thắng cuối cùng không phải là những “cai tù” cộng sản trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn, mà là chính ông, người đã có thể đứng thẳng trước mọi gian lao thử thách trong 33 năm ngục tù.
Nói đến kỷ lục Guiness về chuyện tù đày, có lẽ thế giới sẽ không bao giờ quên tên tuổi của người tù tên là Richard Honeck, người đã mãn hạn tù tại trại giam Menard Branch, tiểu bang Illinois, Hoa kỳ. Ngày 20 tháng 12 năm 1963, ông già 84 tuổi này được trả tự do sau 64 năm liên tục bị giam tù.
“Bác Richard”, như người ta quen gọi, đã bị kết án lao động khổ sai năm 1899, vì tội ngộ sát trong một cuộc cãi vã với một người quen. Năm đó, bác vừa tròn 20 tuổi.
Năm 1949, vào tuổi 70, sau khi đã “bóc” 50 cuốn lịch trong tù, bác Richard được trả tự do có điều kiện. Nhưng vào thời điểm đó, bác không còn bất cứ một người thân nào để bảo lãnh bác. Vậy là bác đành tiếp tục ở…tù, coi như “xin nhận nơi này làm quê hương”.
Năm 1962, một phóng viên của hãng thông tấn AP muốn viết một bài phóng sự về trại tù Menard Branch. Ông đã đến gặp bác Richard. Đây là lần đầu tiên sau 59 năm, bác được một người ngoài vào thăm. Bài phóng sự của AP nhắc đến tên của “Người tù bị lãng quên lâu nhứt”. Sau đó, bác Richard bắt đầu nhận được thư từ của người bên ngoài. Quan trọng nhứt là lá thư của một cô cháu gái ở California mà bác chẳng hề biết. Cô cháu gái sinh năm 1900, tức một năm sau khi bác Richard bắt đầu cuộc sống “nội trú” của mình. Cô có nghe nói đến bác, nhưng cô cứ tưởng bác đã chết từ thuở nào rồi.
Chính nhờ cô cháu gái này đứng ra bảo lãnh mà bác Richard được trả tự do với điều kiện. Khi được hỏi về cảm nghĩ, người tù trải qua nhiều năm nhứt trong tù này chia sẻ: “Có lúc tôi cũng nghĩ đến chuyện ra khỏi tù, nhưng tôi không bao giờ tưởng điều đó có thể xảy ra…Tôi cố gắng không nghĩ về thế giới bên ngoài”
Cụ già với vẻ mặt rất hiền từ này tuyên bố: “Tôi không có bất cứ sự cay đắng nào. Trong tôi không hề có chỗ đứng cho thứ cảm xúc như thế. Từ lâu nay, tôi đã học biết xua đuổi bất cứ mầm mống hận thù hay hung hãn nào. Tôi đã giao hòa với chính bản thân, bởi vì tôi đã học được rằng con người duy nhứt mà tôi phải thực sự chiến thắng là chính tôi.” (The Longest Prison Sentence Served in U.S, Wikipedia)
Có thể nói đây cũng là chiến thắng mà bất cứ tù nhân nào đứng vững lâu năm trong tù cũng đều có thể đạt được.
Trong cuốn sách “Long Walk to Freedom” (Cuộc Hành trình dài tìm Tự do), người cựu tù Nelson Mandela viết rằng bị biệt giam là điều khủng khiếp nhứt trong cuộc sống tù đày. Tuy nhiên, ông khẳng định: “Tôi nhận thấy rằng nếu biết giữ cho tinh thần được vững mạnh thì ngay cả khi thân xác bị thử thách, con người vẫn có thể chịu đựng điều không thể chịu đựng được. Những xác tín mạnh mẽ là bí quyết để sống còn trước sự thiếu thốn. Tinh thần của bạn có thể được lấp đầy ngay cả khi bao tử của bạn trống không.”
“Tự do” mà người tù Nelson Mandela đã đạt được không chỉ là cuộc giải phóng dân tộc Nam Phi khỏi ách nô lệ của chế độ phân biệt chủng tộc. “Tự do” sau cuộc hành trình 27 năm dài trong lao tù mà ông có được chính là cuộc chiến thắng trên chính bản thân: tự do khỏi hận thù, tự do khỏi bạo động, tự do để sống hòa giải và tha thứ với chính kẻ thù của mình.
Tôi nghĩ đó cũng là thứ chiến thắng và tự do mà đức cố hồng y Nguyễn Văn Thuận cũng đã đạt được sau 13 năm tù đày, biệt giam và quản thúc tại gia.
Nghĩ như thế về tự do cho nên  tôi cho rằng, “những kẻ khốn khổ” thật sự không phải là những người bị đọa đày trong tù ngục bất công, mà chính là những người tự giam mình trong nhà tù của nghi kỵ, hận thù, ích kỷ, tham lam và dối trá. Những người đó, dù có đạt thành công trong địa vị, chức quyền hay tiền của, ngay cả khi họ nắm quyền sinh sát, giam hãm người khác trong tay cũng không thể nào có được sự an nhiên tự tại và tự do thật sự trong tâm hồn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét