Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

Như thiên thần..


Chu Thập, 27/9/14
Tôi sinh ra trong một gia đình công giáo toàn tòng. Niềm tin tôn giáo được tôi tiếp nhận như gia sản cao quý nhứt được cha mẹ để lại và như một phần làm nên bản sắc của tôi. Nhưng trong suy nghĩ và hình thành nhân cách, tôi lại thấy mình gần gũi với Phật Giáo hơn. Vô thường, vô chấp, buông bỏ, khoan nhượng, cảm thông, từ bi...là những ý niệm mang lại nhiều cảm hứng để tôi cố gắng sống cho ra người tử tế hơn. Theo ngôn ngữ của nhà văn nữ Dương Thu Hương, tôi là một “phật tử theo cách thế của tôi”. Thật ra, tôi cảm thấy bị thu hút bởi Phật Giáo không phải vì triết lý cao siêu cho bằng cuộc sống của các bậc chân tu trong tôn giáo này. Thuở nhỏ, tôi là đứa trẻ  “con nhà có đạo”, nhưng mất dạy. Những ngày lễ của Phật Giáo, như ngày rằm và nhứt là ngày Phật Đản (thời đó nhằm mùng 8 tháng Tư Âm lịch), lũ trẻ “con nhà có đạo” chúng tôi thường kéo nhau đến các chùa chiền để quấy phá và ăn cắp đồ cúng. Vậy mà mỗi khi bị bắt gặp, các vị sư trụ trì vẫn luôn tỏ ra độ lượng, không một lời quở trách chớ đừng nói đến một cử chỉ “bạo động” nào như tôi đã từng chứng kiến hoặc từng là đối tượng phải chịu trận trước những cơn lôi đình của ông cha sở hoặc các bà xơ trong xóm đạo của tôi. Tôi thực sự ngưỡng mộ và yêu mến các vị chân tu của Phật Giáo từ đó. Cũng như cố linh mục Gildo Dominici (Đỗ Minh Trí), Dòng Tên, người đã từng truyền giáo ở Việt Nam trước năm 1975 và làm việc trong các trại tỵ nạn Đông Nam Á sau khi bị trục xuất  khỏi Việt Nam, tôi cũng cho rằng một trong những  hình ảnh đẹp nhứt của quê hương chính là “những thầy tỳ kheo mỗi buổi sáng thường xếp hàng một đi hết nhà này đến cửa hàng khác để khất thực, mầu áo vàng rực rỡ dưới nắng. Họ tách rời loại bỏ hết lòng tự ái, nói cách khác, họ khất thực nhưng không phải là đi ăn xin, họ đi tìm Tuệ Giác và Chân Như của đời sống. Đó là hình ảnh của Việt Nam quê hương tôi” (Linh mục Dominici Đỗ Minh Trí, Việt Nam Quê Hương Tôi, ấn bản Úc Châu, lần thứ hai 1991, trg 18). Tiếc thay, sau năm 1975, hình ảnh quê hương ấy dường như đã bị chế độ cộng sản quét sạch khỏi đất nước hoặc có chăng đã bị thay thế bởi những “khất thực gia” giả mạo chuyên khai thác lòng từ bi của người khác.
Trong chuyến viếng thăm Thái Lan mới đây, tôi thực sự cảm động khi nhìn lại hình ảnh quen thuộc một thuở ấy qua các vị tỳ kheo Thái. Nếu ở cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cứ ra ngõ là gặp “anh hùng” và “gian hùng” thì ở xứ Phật Thái Lan, cứ ra khỏi nhà là gặp các thày tỳ kheo. Một buổi sáng nọ, tại thành phố Chiang Mai, Miền Bắc Thái, khi ra phố để điểm tâm, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng gây nhiều cảm xúc trong tôi: trên lề đường, sau khi mua một gói “cúng dường” được làm sẵn, một cô gái trẻ mà tôi đoán là sinh viên của Đại học bên cạnh, đã kính cẩn đặt vào chiếc bình Bát của một vị tỳ kheo, rồi xin thày ngồi xuống trên một chiếc ghế. Sau đó, cô đến quỳ trước mặt thày và lẩm nhẩm điều gì đó. Đến lượt thày, thày cũng giảng dạy điều gì đó mà tiếng Thái chỉ mới học được vài câu xã giao không cho phép tôi theo dõi được câu chuyện. Những người qua đường hẳn phải ngạc nhiên về cử chỉ thiếu tế nhị của tôi khi chăm chú lắng nghe những lời dạy bảo của vị tỳ kheo. Tôi không hiểu gì, nhưng tôi cũng đoán mò rằng nội dung bài thuyết pháp tự phát của thày cùng lắm cũng xoay quanh chuyện sống cho ra người mà cung cách và cuộc sống của thày là một bài học cụ thể.
Tìm hiểu về Phật Giáo, tôi biết rằng việc đầu tiên mà sau khi giác ngộ, Đức Phật đã làm là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài. Họ là những hiền nhân nay đây mai đó. Họ từ bỏ tất cả để học Phật Pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này sang nhà khác. Vật sở hữu duy nhứt của họ là ba chiếc Y và một cái bình Bát, đủ để chứa đựng lương thực cho một người ăn vào bữa trưa, tức bữa ăn duy nhứt trong ngày của người đi khất thực.
Theo Kinh Phật, sự ăn xin của tu sĩ đem lại lợi ích cho mình và cho chúng sinh. Với vị tỳ kheo, khất thực có 5 điều lợi ích là 1) Tâm trí được rảnh rang, ít phiền não 2) Không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh nhai 3) Đoạn trừ tâm kiêu căng ngã mạn 4) Đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn ngon và ăn nhiều vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa;  thức ăn chỉ đầy bát chớ không nhiều hơn nữa, tránh khỏi sự thâu trữ vật thực, tiền của và 6) Có nhiều thì giờ để tu hành.
Còn với chúng sinh, thì việc khất thực của các tỳ kheo giúp 1) Tạo cơ duyên cho người bố trí trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho họ 2) Tạo cơ duyên giáo hóa chúng sinh và 3) Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải. Các thày tỳ kheo không “lao động sản xuất”. Họ cũng không phải là những người “ăn theo” hay “ăn bám” xã hội. Trái lại, chính họ mới là những người mà cuộc sống siêu thoát luôn có sức mang lại thức ăn tinh thần vốn cần thiết như khí thở cho con người trong bất cứ xã hội và bất cứ thời đại nào. Càng văn minh về vật chất, con người càng cần có của ăn tinh thần ấy hơn.
Nhớ lại những điều căn bản trên đây của Kinh Phật về khất thực, tôi nghĩ rằng cô gái trẻ “thọ giáo” với vị tỳ kheo mà tôi gặp trên lề đường ở thành phố Chiang Mai, có lẽ cũng chỉ có một nỗi khao khát duy nhứt là muốn được sống cho ra người tử tế hơn, nghĩa là vị tha hơn để nghĩ đến người khác hơn là bản thân mình.
Qua cách “vái chào” đầy cung kính và chân thành đối với người khác, tôi cho rằng người Thái nào cũng cố gắng sống tử tế như thế và sự hiện diện của các tu sĩ, nhứt là những thày tỳ kheo khất thực luôn nhắc nhở họ điều đó. Tôi cảm nhận được thiện chí đó qua người tài xế kiêm hướng dẫn viên du lịch đã đồng hành với tôi trong chuyến đi Thái Lan vừa qua. Trong suốt chuyến đi, tôi chưa hề nghe ông phàn nàn than trách về cuộc sống, cũng chẳng lên tiếng phê bình chỉ trích người khác và nhứt là không kề mở miệng kỳ kèo để đòi hỏi thêm bớt về tiền công của mình. Thỉnh thoảng khi đi qua một ngôi chùa, ông bóp còi vài cái nhẹ. Còi xe là âm thanh tôi ít nghe ở Thái Lan. Lúc đầu tôi cứ nghĩ ông cảnh cáo người đi đường hoặc làm hiệu cho một chiếc xe ngược chiều quen biết nào đó. Tuy nhiên, theo lời giải thích của ông, các tài xế Thái thường bóp còi mỗi khi đi qua một ngôi chùa gần bên đường là để xin các vị sư trụ trì cầu nguyện cho chuyến đi được an toàn và bình an. Thì ra, ngay cả khi không xuất hiện, các nhà tu hành ở Thái Lan cũng tạo được cảm hứng cho người dân: các vị vừa cầu nguyện và chúc phúc cho họ, vừa nhắc nhở họ cư xử và hành động cho phải đạo. Các vị có mặt trong xã hội Thái chẳng khác nào các thiên thần luôn che chở và hướng dẫn người dân!
Tại phi trường quốc tế Chiang Mai, ở phía sau những quày kiểm soát vé và cân hành lý của một hãng máy bay Thái, tôi đọc được một khẩu hiệu thú vị: “Chúng tôi đối xử với quý vị như một thiên thần” (we treat you like an angel). Tại cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kể từ khi Thượng Đế bị chế độ vô thần chính thức khai tử, người ta lại sính với công thức quảng cáo “Khách hàng là thượng đế”.Thượng Đế chân thực và duy nhứt được thay thế bằng vô số thượng đế, nhưng chẳng có thượng đế nào được đối xử, chớ đừng nói đến “tôn kính”, xứng với ngôi vị thượng đế. Vào chợ thì khách hàng thượng đế bị chửi như tát nước vào mặt. Đứng sắp hàng ở các tiệm phở, hàng ăn nổi tiếng một chút, khách hàng thượng đế chỉ vì một miếng ăn ngon mà đành phải cúi mặt chịu nhục vì những  lời rủa sả, chen lấn...
Ở Thái Lan, người ta không nâng khách hàng lên bậc thượng đế mà chỉ như thiên thần thôi. Tôi thực sự cảm nhận được vị thế “thiên thần” của mình qua một chuyện đáng tiếc khiến tôi chỉ muốn độn thổ. Số là trong những ngày viếng thăm Chiang Mai, sau khi thưởng thức đủ thứ trái cây ngon ngọt, tôi nổi máu tham muốn tha về Bangkok một trái sầu riêng vừa chín tới, nghĩa là vừa thoang thoảng bốc mùi. Tôi tưởng là “an toàn” sau khi đã chôn sâu trái sầu riêng vào giữa mớ trái cây khác. Thùng trái cây của tôi qua được mấy trạm, kể cả nhân viên ở quày kiểm soát vé, cân hành lý và gởi hành lý nên tôi thấy “yêu đời” nên cứ thong thả khi được thông báo lên máy bay. Nhưng đến phiên tôi, tôi đã bị chận lại như thể họ chờ đợi tôi. Tôi được báo là trong hành lý gởi dưới khoang của tôi có sầu riêng và đây là điều cấm kỵ. Thực tình tôi không hề hay biết về luật này khi nghĩ rằng hành lý ở dưới khoang và đây là chuyến bay quốc nội. Hơn nữa tôi đã báo cho nhân viên chuyển hành lý lúc “check-in” là đó là thùng trái cây và anh ta đã dán nhãn “đồ dễ vỡ” lên mặt thùng. Giờ đây, nhân viên hàng không muốn có “phép” (permission) của tôi và muốn tôi tự tay lấy trái sầu riêng ra. Trước sự cố này, tôi đã phải hết nước miếng để xin lỗi và giải thích rằng tôi không hề hay biết về luật này. Nhưng nhân viên có trách nhiệm kiểm soát vé và cân hành lý lại là người xít xoa xin lỗi liên tục vì sự thiếu sót của mình. Hai bàn tay anh chắp lại, để lên trán, xá chậm rãi nhưng liên tục. Không riêng anh nhân viên, tất cả những tiếp viên và nhân viên có mặt ở cửa máy bay lúc đó đều tỏ ra cảm thông và vui vẻ. Hành lý của tôi, ngoài trái sầu riêng ở lại, đã được nhanh chóng gói lại và chuyển xuống khoang. Chuyến bay vẫn đúng giờ như không hề có điều gì xảy ra. Kẻ “phạm pháp” như tôi được đối xử như một thiên thần đã đành, mà người thanh niên này mới thực sự là một thiên thần. Suốt chuyến bay từ Chiang Mai về Bangkok, hình ảnh của anh không rời khỏi tâm trí tôi. Cùng với anh, tôi nghĩ đến tất cả những người Thái mà tôi đã có dịp gặp gỡ, trò chuyện hoặc chỉ nhìn thấy thoáng qua trên đường. Họ mới thực sự là những “thiên thần”. Chính khi xem tôi như “thiên thần” để đối xử cho phải đạo, họ đã thể hiện đúng cung cách “thiên thần” của họ.
Tôi chưa từng thấy một thiên thần. Nhưng trong mọi văn hóa, theo cái nhìn thông thường, thiên thần là những vị sứ giả được Thượng Đế sai đến để thể hiện lòng thiện hảo của Ngài. Có những thiên thần trẻ thơ mà chỉ cần một nụ cười cũng có thể làm cho thế giới tăm tối của loài người được sáng lên. Có những thiên thần xa lạ mà một nghĩa cử, dù nhỏ mọn đến đâu, cũng đủ để liên kết con người lại với nhau.
Khẩu hiệu “chúng tôi đối xử với quý vị như một thiên thần” mà tôi đã đọc được ở phi trường Chiang Mai luôn nhắc nhở tôi điều đó. Thực ra đó cũng là khuôn vàng thước ngọc trong cách đối nhân xử thế mà nếu mọi người đều thực hành thì chắc chắn thế giới này sẽ là một nơi tốt đẹp và đáng sống hơn. Xét cho cùng, đó cũng là nguyên tắc sống mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét