Chu Thập, 27/9/14

Tìm hiểu về Phật Giáo, tôi biết rằng việc đầu tiên mà sau
khi giác ngộ, Đức Phật đã làm là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia
theo Ngài. Họ là những hiền nhân nay đây mai đó. Họ từ bỏ tất cả để học Phật
Pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà
này sang nhà khác. Vật sở hữu duy nhứt của họ là ba chiếc Y và một cái bình
Bát, đủ để chứa đựng lương thực cho một người ăn vào bữa trưa, tức bữa ăn duy
nhứt trong ngày của người đi khất thực.
Theo Kinh Phật, sự ăn xin của tu sĩ đem lại lợi ích cho
mình và cho chúng sinh. Với vị tỳ kheo, khất thực có 5 điều lợi ích là 1) Tâm
trí được rảnh rang, ít phiền não 2) Không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh
nhai 3) Đoạn trừ tâm kiêu căng ngã mạn 4) Đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn
ngon và ăn nhiều vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa; thức ăn chỉ đầy bát chớ không nhiều hơn nữa,
tránh khỏi sự thâu trữ vật thực, tiền của và 6) Có nhiều thì giờ để tu hành.
Còn với chúng sinh, thì việc khất thực của các tỳ kheo
giúp 1) Tạo cơ duyên cho người bố trí trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho
họ 2) Tạo cơ duyên giáo hóa chúng sinh và 3) Nêu gương sống giản dị làm cho người
đời bớt tham đắm của cải. Các thày tỳ kheo không “lao động sản xuất”. Họ cũng không
phải là những người “ăn theo” hay “ăn bám” xã hội. Trái lại, chính họ mới là những
người mà cuộc sống siêu thoát luôn có sức mang lại thức ăn tinh thần vốn cần
thiết như khí thở cho con người trong bất cứ xã hội và bất cứ thời đại nào.
Càng văn minh về vật chất, con người càng cần có của ăn tinh thần ấy hơn.
Nhớ lại những điều căn bản trên đây của Kinh Phật về khất
thực, tôi nghĩ rằng cô gái trẻ “thọ giáo” với vị tỳ kheo mà tôi gặp trên lề đường
ở thành phố Chiang Mai, có lẽ cũng chỉ có một nỗi khao khát duy nhứt là muốn được
sống cho ra người tử tế hơn, nghĩa là vị tha hơn để nghĩ đến người khác hơn là
bản thân mình.
Qua cách “vái chào” đầy cung kính và chân thành đối với
người khác, tôi cho rằng người Thái nào cũng cố gắng sống tử tế như thế và sự
hiện diện của các tu sĩ, nhứt là những thày tỳ kheo khất thực luôn nhắc nhở họ
điều đó. Tôi cảm nhận được thiện chí đó qua người tài xế kiêm hướng dẫn viên du
lịch đã đồng hành với tôi trong chuyến đi Thái Lan vừa qua. Trong suốt chuyến
đi, tôi chưa hề nghe ông phàn nàn than trách về cuộc sống, cũng chẳng lên tiếng
phê bình chỉ trích người khác và nhứt là không kề mở miệng kỳ kèo để đòi hỏi
thêm bớt về tiền công của mình. Thỉnh thoảng khi đi qua một ngôi chùa, ông bóp
còi vài cái nhẹ. Còi xe là âm thanh tôi ít nghe ở Thái Lan. Lúc đầu tôi cứ nghĩ
ông cảnh cáo người đi đường hoặc làm hiệu cho một chiếc xe ngược chiều quen biết
nào đó. Tuy nhiên, theo lời giải thích của ông, các tài xế Thái thường bóp còi
mỗi khi đi qua một ngôi chùa gần bên đường là để xin các vị sư trụ trì cầu nguyện
cho chuyến đi được an toàn và bình an. Thì ra, ngay cả khi không xuất hiện, các
nhà tu hành ở Thái Lan cũng tạo được cảm hứng cho người dân: các vị vừa cầu
nguyện và chúc phúc cho họ, vừa nhắc nhở họ cư xử và hành động cho phải đạo.
Các vị có mặt trong xã hội Thái chẳng khác nào các thiên thần luôn che chở và
hướng dẫn người dân!
Tại phi trường quốc tế Chiang Mai, ở phía sau những quày kiểm
soát vé và cân hành lý của một hãng máy bay Thái, tôi đọc được một khẩu hiệu
thú vị: “Chúng tôi đối xử với quý vị như một thiên thần” (we treat you
like an angel). Tại cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kể từ khi Thượng Đế bị
chế độ vô thần chính thức khai tử, người ta lại sính với công thức quảng cáo
“Khách hàng là thượng đế”.Thượng Đế chân thực và duy nhứt được thay thế bằng vô
số thượng đế, nhưng chẳng có thượng đế nào được đối xử, chớ đừng nói đến “tôn
kính”, xứng với ngôi vị thượng đế. Vào chợ thì khách hàng thượng đế bị chửi như
tát nước vào mặt. Đứng sắp hàng ở các tiệm phở, hàng ăn nổi tiếng một chút,
khách hàng thượng đế chỉ vì một miếng ăn ngon mà đành phải cúi mặt chịu nhục vì
những lời rủa sả, chen lấn...
Ở Thái Lan, người ta không nâng khách hàng lên bậc thượng
đế mà chỉ như thiên thần thôi. Tôi thực sự cảm nhận được vị thế “thiên thần” của
mình qua một chuyện đáng tiếc khiến tôi chỉ muốn độn thổ. Số là trong những
ngày viếng thăm Chiang Mai, sau khi thưởng thức đủ thứ trái cây ngon ngọt, tôi
nổi máu tham muốn tha về Bangkok một trái sầu riêng vừa chín tới, nghĩa là vừa
thoang thoảng bốc mùi. Tôi tưởng là “an toàn” sau khi đã chôn sâu trái sầu
riêng vào giữa mớ trái cây khác. Thùng trái cây của tôi qua được mấy trạm, kể cả
nhân viên ở quày kiểm soát vé, cân hành lý và gởi hành lý nên tôi thấy “yêu đời”
nên cứ thong thả khi được thông báo lên máy bay. Nhưng đến phiên tôi, tôi đã bị
chận lại như thể họ chờ đợi tôi. Tôi được báo là trong hành lý gởi dưới khoang của
tôi có sầu riêng và đây là điều cấm kỵ. Thực tình tôi không hề hay biết về luật
này khi nghĩ rằng hành lý ở dưới khoang và đây là chuyến bay quốc nội. Hơn nữa
tôi đã báo cho nhân viên chuyển hành lý lúc “check-in” là đó là thùng trái cây
và anh ta đã dán nhãn “đồ dễ vỡ” lên mặt thùng. Giờ đây, nhân viên hàng không
muốn có “phép” (permission) của tôi và muốn tôi tự tay lấy trái sầu riêng ra. Trước
sự cố này, tôi đã phải hết nước miếng để xin lỗi và giải thích rằng tôi không hề
hay biết về luật này. Nhưng nhân viên có trách nhiệm kiểm soát vé và cân hành
lý lại là người xít xoa xin lỗi liên tục vì sự thiếu sót của mình. Hai bàn tay
anh chắp lại, để lên trán, xá chậm rãi nhưng liên tục. Không riêng anh nhân
viên, tất cả những tiếp viên và nhân viên có mặt ở cửa máy bay lúc đó đều tỏ ra
cảm thông và vui vẻ. Hành lý của tôi, ngoài trái sầu riêng ở lại, đã được nhanh
chóng gói lại và chuyển xuống khoang. Chuyến bay vẫn đúng giờ như không hề có
điều gì xảy ra. Kẻ “phạm pháp” như tôi được đối xử như một thiên thần đã đành,
mà người thanh niên này mới thực sự là một thiên thần. Suốt chuyến bay từ
Chiang Mai về Bangkok, hình ảnh của anh không rời khỏi tâm trí tôi. Cùng với
anh, tôi nghĩ đến tất cả những người Thái mà tôi đã có dịp gặp gỡ, trò chuyện
hoặc chỉ nhìn thấy thoáng qua trên đường. Họ mới thực sự là những “thiên thần”.
Chính khi xem tôi như “thiên thần” để đối xử cho phải đạo, họ đã thể hiện đúng
cung cách “thiên thần” của họ.
Tôi chưa từng thấy một thiên thần. Nhưng trong mọi văn
hóa, theo cái nhìn thông thường, thiên thần là những vị sứ giả được Thượng Đế
sai đến để thể hiện lòng thiện hảo của Ngài. Có những thiên thần trẻ thơ mà chỉ
cần một nụ cười cũng có thể làm cho thế giới tăm tối của loài người được sáng
lên. Có những thiên thần xa lạ mà một nghĩa cử, dù nhỏ mọn đến đâu, cũng đủ để
liên kết con người lại với nhau.
Khẩu hiệu “chúng tôi đối xử với quý vị như một thiên
thần” mà tôi đã đọc được ở phi trường Chiang Mai luôn nhắc nhở tôi điều
đó. Thực ra đó cũng là khuôn vàng thước ngọc trong cách đối nhân xử thế mà nếu
mọi người đều thực hành thì chắc chắn thế giới này sẽ là một nơi tốt đẹp và
đáng sống hơn. Xét cho cùng, đó cũng là nguyên tắc sống mà chính Chúa Giêsu đã
truyền dạy: “Những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng
hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét