Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Có Qua Có Lại Mới Toại Lòng Nhau



                                                                                   Chu Thập
14.9.10

Có sống xa quê hương, lạc loài giữa những người không cùng màu da tiếng nói, tôi mới thấy tự ái dân tộc của mình lên cao. Tôi hãnh diện khi có một người Việt nam thành tựu trong xã hội. Nhưng tôi cũng buồn khi nghe nhắc đến tên của một người Việt nam trong một tổ chức tội phạm. Mới đây, tôi vui mừng khi hay tin người Việt nam đầu tiên là giáo sư Ngô Bảo Châu tại Pháp được trao tặng giải thưởng toán học Fields năm 2010 hay nghe nhắc đến tên tuổi của tiến sĩ Trịnh Hữu Đức tại Trung tâm Nasa của Hoa kỳ. Nhưng cũng mới đây, mỗi lần ra đường tôi lại thấy như người hàng xóm nào cũng nhìn mình sau khi các cơ quan truyền thông tại Úc đại lợi nêu tên một người họ “Nguyễn” nào đó trong một vụ đụng độ tại Bankstown giữa cảnh sát và một tổ chức buôn bán ma túy khiến cho một sĩ quan cảnh sát bị thiệt mạng.
Tôi không thể không nhớ lại lời tuyên bố của một nhà lãnh đạo tôn giáo tại Việt nam là Đức cha Ngô Quang Kiệt, cựu Tổng giám mục Hà nội, trong một cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà nội dạo tháng 9 năm 2008. Nhà lãnh đạo công giáo này nói rằng ngài cảm thấy “rất nhục nhã” khi mang quốc tịch Việt nam  ra nước ngoài: đi đâu cũng bị “soi xét”!
Tuy không mang “hộ chiếu” cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam và có lẽ cũng chẳng đi lại nhiều bằng vị tổng giám mục Công giáo này, nhưng kinh nghiệm bị  chiếu cố và “soi xét” đối với tôi không phải là ít. Một lần tại phi trường Sydney, hải quan bắt tôi phải nặn cho hết cái ống kem đánh răng của tôi ra cho họ xem. Những lần bị an ninh phi trường đưa chó “nghiệp vụ” tới ngửi hành lý của mình là chuyện rất thường. Một lần, giữa đám hành khách da trắng mũi lõ quá cảnh tại phi trường Melbourne, chỉ có một người da vàng mũi tẹt duy nhứt là tôi bị buộc đứng riêng ra một nơi để “soi xét” từ đầu đến chân, từ trong ra ngoài. Ngay cả một lần từ Sydney đi Cains, tôi cũng là người duy nhứt bị hải quan chận lại và bị buộc phải mở tung cái xách tay cho họ “soi xét”.
Những lần bị “nhục mạ” như thế, tôi chỉ biết tự an ủi: đây có thể chỉ là những thủ tục có tính cách “random” (ngẫu nhiên) mà hành khách nào cũng có thể trải qua ở bất cứ phi trường nào. Nhưng nghĩ cũng lạ: tại sao người ta cứ nhè người Á Châu, đặc biệt là người Việt nam, mà “random”? Tôi không thể không liên kết những lần, nói theo ngôn ngữ của đức cha Kiệt, “rất nhục nhã” như thế với những tin như cơm bữa trên báo chí về những vụ vận chuyển ma túy, “trồng cỏ” do người Việt nam sống tại Úc , Anh và Gia nã đại thực hiện.
Nghĩ cho cùng, tôi không trách các nhân viên an ninh và hải quan ở các phi trường, nhứt là các phi trường tại Úc. Con người thường suy nghĩ theo luật xác xuất và dễ có khuynh hướng tổng quát hóa. Bởi đa số những người vận chuyển ma túy bị bắt tại Phi trường là người Việt nam thì đương nhiên hễ gặp người Việt nam người ta phải “soi xét” thôi.
Tôi nhớ lúc mới tỵ nạn tại Pháp, tôi sống chung với một số người Pháp. Hễ 10 giờ đêm mà còn có một cú điện thoại gọi tới thì họ bảo tôi “của mày đó”. Lúc đầu, tôi còn “cười” trừ được. Về sau tôi thấy “rất là nhục nhã”, vì hễ có chuyện “quấy rầy” bất kể giờ giấc, thì họ lại gán cho người Việt nam. Họ ngầm bảo tôi rằng người Việt nam của mày chẳng biết tế nhị, chẳng biết thế nào là lịch sự, chẳng biết thế nào là tôn trọng người khác cả.
Thật ra, người nước nào cũng có một vài nét đặc trưng, tích cực cũng có, mà tiêu cực cũng nhiều, làm nên cái “dân tộc tính” mà lắm khi mình chẳng hãnh diện chút nào. Chẳng hạn, người Việt nam tại Hoa kỳ thường tự chế diễu bằng câu nói: “không ăn đậu không phải là Mễ, không đi trễ không phải là Việt nam”. Quơ đũa cả nắm là cách lý luận không nghiêm chỉnh. Đâu phải hễ là người Việt nam thì đương nhiên không tôn trọng giờ giấc. Nhưng vì có quá nhiều người Việt nam chẳng quan tâm đến chuyện đúng hẹn mà người ta buộc phải gán cho người Việt nam nói chung cái tính “lè phè” ấy thôi. Về chuyện này thì có lẽ người Phi luật tân may ra mới theo kịp người Việt nam. Mỗi lần có hẹn với ai, người dân hải đảo này cũng thường hỏi lại: “Theo giờ Đức hay giờ Phi”. Giờ “Đức” là đúng hẹn. Còn giờ “Phi” là giờ cao su. Dĩ nhiên, cũng như không phải người Thái Lan nào cũng hiếu khách (làm sao người Việt tỵ nạn quên được chuyện cướp biển), cũng như không phải người Miến Điện nào cũng hiền lành dễ thương (cứ nhìn cái chế độ quân phiệt), cũng như không phải người Việt nam nào cũng “đáng yêu” (cứ nhìn cái bộ mặt của mấy ông Cộng sản xem), cũng vậy không phải người dân Phi nào cũng xem giờ giấc “như không có”. Nhưng có lẽ có quá nhiều người Phi thường trễ hẹn mà người ta lại có cái nhìn tiêu cực về cả dân tộc này. “Quơ đũa cả nắm” là cái nhìn rất thông thường của con người.
Mấy ngày vừa qua, tôi cũng hay nghĩ đến cái chuyện “quơ đũa cả nắm” đối với người Hồi giáo. Người ta nói rằng kể từ sau cuộc khủng bố tại Hoa kỳ ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi sự đều thay đổi. Thay đổi rõ ràng nhứt là cái nhìn của thế giới Tây Phương đối với người Hồi giáo. Tôi cũng bị “lây nhiễm” cái nhìn ấy. Tôi còn nhớ, sau cuộc khủng bố đó, cứ mỗi lần lên máy bay, thấy có bóng dáng một ông Trung Đông là tôi cứ phải, nói theo ngôn ngữ của “con nhà đạo”, “chuẩn bị dọn mình chết lành”, như thể đó là chuyến đi cuối cùng của mình. Nghĩ lại thấy mình quá bất công trong cái nhìn ấy. Tôi cứ phải chiến đấu với cái tam đoạn luận khập khiễng của mình: không phải mọi người Hồi giáo đều là người khủng bố, nhưng tất cả mọi tên khủng bố đều là người Hồi giáo. Vậy thì…
Với lý trí được vận dụng một cách sáng suốt và khách quan, tôi không chấp nhận cái nhìn “quơ đũa cả nắm” và lên án mọi hành vi xúc phạm đến tôn giáo. Với tôi, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành, tôn giáo nào cũng đáng được tôn trọng cả. Tôn trọng tôn giáo cũng có nghĩa là tôn trọng tình cảm tôn giáo của con người. Và tôn trọng tình cảm tôn giáo của con người chính là tôn trọng phẩm giá của con người. Với niềm xác tín ấy, dù đang sống trong một chế độ dân chủ trong đó một trong những quyền cơ bản cần được tôn trọng là quyền tự do ngôn luận và phát biểu, tôi vẫn không tán đồng bất cứ hành vi nào xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người khác.
Nhưng nói qua thì cũng phải nói lại. Trong khi tôi cảm thông với rất nhiều người Hồi giáo đang sống tại các nước Tây phương và hiện đang là đối tượng của những nghi kỵ và loại trừ, tôi cũng chia sẻ được phần nào phản ứng của rất nhiều người dân Tây Phương hiện nay. Tôn giáo nào cũng xem trọng việc tự vấn lương tâm và sám hối. Tôi nghĩ có lẽ người Hồi giáo tại các nước Tây Phương nên tự đặt ra câu hỏi: “Tại sao ngày càng có nhiều người Tây Phương có thái độ thù nghịch đối với mình?”
Hơn ai hết, có lẽ những người Hồi giáo tại Hòa Lan phải hiểu được tại sao ở đây  lại dấy lên một Đảng “Wilders” có chủ trương bài người Hồi giáo, nhưng lại được rất nhiều người Hòa Lan ủng hộ? Dân biểu Wilders cho rằng Hồi giáo không bao giờ có thể hòa nhập với nền dân chủ Tây Phương. Trong một cuộc phỏng vấn trên nhựt báo Pháp Le Figaro, ông Wilders giải thích về việc chính phủ Pháp cấm phụ nữ Hồi giáo mặc y phục trùm kín người với những lý do như sau: Thứ nhứt, cảnh sát cần phải nhận diện được mọi người. Đây là vấn đề an ninh. Thứ hai, y phục này ngăn cản phụ nữ giao tiếp với xã hội. Thứ ba, tại Hòa lan, chúng ta không đối xử với phụ nữ như thế. (Việt Luận, thứ Sáu 10/9/2010)
Điều lẽ ra phải làm cho người Hồi giáo tại Tây phương suy nghĩ là: trong khi tại đây họ được hưởng mọi thứ tự do, thì tại các nước Hồi giáo của họ, như tại Á rập Saudi chẳng hạn, không ai có quyền tuyên xưng công khai bất cứ một tôn giáo nào khác ngoài Hồi giáo. Họ cũng phải nghĩ lại một cách nghiêm chỉnh: tại các nước có đa số theo Hồi giáo, các tín hữu Kitô bị công khai bách hại một cách tàn bạo?
Nhìn chung, chính thái độ của người Hồi giáo đã làm phát sinh thái độ thù nghịch của người Tây Phương đối với họ. Về điểm này tôi chỉ xin trích dẫn nhận định của một nhà phân tích đầy uy tín là kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa. Ông viết: “Thái độ của người Hồi giáo cũng là chuyện đáng nói".
Họ không có can đảm lên tiếng kết án hành vi bạo động mù quáng của các phần tử cực đoan nhất trong Đạo Hồi. Người Hồi giáo đã giữ im lặng khi bom tiêu hủy hai bức tượng cổ của Phật Giáo tại Afghanistan vào năm 2001. Họ không kết án những tên quá khích đã giết người hàng loạt tại Kashmir, Karachi, tại Mumbai. Họ sẵn sàng nổi giận khi có ai vì vô tình hay cố ý xúc phạm đến tín ngưỡng hay biểu tượng tôn giáo của họ tại Âu Châu, nhưng ngó qua chỗ khác khi có người bị quân Thánh Chiến chặt đầu phơi thây trước ống kính. Một cuộc thi hoa hậu cũng có thể làm 200 người thiệt mạng tại Nigeria vì các phần tử Hồi giáo quá khích ở đây mà không thấy các giáo sĩ, trưởng lão hay thường dân Hồi giáo lên tiếng phê phán hay can ngăn.
Họ rất dũng cảm đả kích các phần tử cực đoan trong xã hội Mỹ và dùng phương tiện truyền thông tự do và dồi dào của Hoa kỳ để tuyên dương tính hiếu hòa của đạo Hồi, nhưng lại thiếu dũng cảm ấy khi nói về tội ác của những kẻ nhân danh Allah để làm đồ tể sát nhân. Một số không nhỏ trong thành phần có ảnh hưởng của Hồi giáo còn khéo khai thác mặc cảm da trắng, thực dân, đế quốc của trí thức thiên tả tại các nước Tây Phương để che giấu tội ác của quân khủng bố.
Nói cho công bằng, ít ai dám lên tiếng thì cũng vì một lý do dễ thông cảm: họ có thể bị sát hại. Nhẹ nhất thì cũng bị một người điên nào đó nhân danh Giáo luật Sharia mà tuyên án tử hình. Vấn đề vì vậy thực ra không nằm trong xã hội Mỹ hay các quốc gia Âu Châu. Nó nằm trong thế giới Hồi giáo” (Việt Báo online 11/9/2001)
Theo tôi, có lẽ các nước Tây Phương và người dân Tây Phương đã quá mệt mỏi vì cách sống và hành xử của người Hồi giáo đang sinh sống trên đất nước của họ. Là một người tỵ nạn, lúc nào tôi cũng mang ơn người dân Tây Phương vì đã mở rộng vòng tay để đón tiếp, cưu mang và mang lại cho tôi cuộc sống ấm no và tự do. Ông đạo Ayatolah Khomeini lẽ ra cũng phải tỏ lòng biết ơn đối với nước Pháp, bởi vì nước này đã cho ông tỵ nạn và cũng từ đó, ông mới có thể trở về nước để làm cuộc cách mạng hồi giáo tại Iran.
Một trong những biểu hiện của lòng biết ơn đối với quốc gia đã đón tiếp mình, theo tôi nghĩ, chính là sống theo nguyên tắc “nhập gia tùy tục” và “có qua có lại”. Đó là nguyên tắc nền tảng và tối thiểu để có cuộc sống hài hòa trong xã hội. Trước khi nói đến chuyện “vô vị lợi” hay “tay mặt làm mà không cho tay trái biết” như Chúa Giêsu đã dạy, thì ít nhứt cũng phải sống theo cái nguyên tắc công bình cơ bản là “tôi cho bạn để bạn cho lại” đã. Trong khi tôi muốn người dân của quốc gia đón tiếp tôi phải tôn trọng tôi và không có thái độ thù nghịch hay khinh dễ tôi, thì tôi cũng phải biết tôn trọng họ. Trong một con đường chật hẹp vốn dễ kẹt xe, tôi lại nhân danh tự do tôn giáo để dàn ra đầy đường mà cầu nguyện, thì thử hỏi, tôi có làm phiền người khác không? Giữa đêm khuya, mọi người cần sự yên tĩnh để nghỉ ngơi, tôi lại bắc loa cầu nguyện inh ỏi, thì thử hỏi, người ta sẽ nghĩ gì về tôi?
Chẳng có tôn giáo nào ở trên hay đi ngược lại Đạo làm người cả. Và một trong những nguyên tắc sơ đẳng của Đạo Làm Người, như người Việt nam chúng ta thuộc nằm lòng là “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Đạo làm người buộc tôi phải sống và cư xử như thế nào để, nếu chưa vị tha đủ để sống vô vị lợi, thì ít nhứt cũng đừng làm phiền người khác.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét