Thứ Tư, 3 tháng 9, 2014

Mọi Việc Đều Có Lúc, Mọi Sự Đều Có Thời.


                                                                                    Chu Thập, 7.9.2010
Mỗi lần nhìn mấy đứa trẻ hàng xóm chơi đùa trên con đường cụt phía trước nhà, tôi luôn thấy tội nghiệp. Quanh đi quẩn lại cũng mấy cái trò chơi mà tôi cho là không thú vị lắm: không cỡi xe đạp thì cũng trượt skateboard hay giầy patin. Quanh năm ngày tháng chỉ có thế. Nhưng được chơi ngoài trời và chơi với nhau như mấy đứa trẻ hàng xóm của tôi đã là “phúc đức” lắm rồi. Có biết bao nhiêu đứa trẻ mà tôi biết chắc là rời khỏi nhà trường về nhà chỉ biết dán mắt vào màn ảnh vi tính hay cắm đầu vào các trò chơi điện tử. Có em vừa ra khỏi lớp ở trường học lại phải tiếp tục lớp ở nhà. Có em vừa tan trường lại phải đi học thêm. Có em đi đâu cũng có cha mẹ đi kèm theo. Nhìn những trẻ em sống trong thời đại ngày nay, tôi liên tưởng đến đến hình ảnh của con gà công nghiệp: ăn nhiều, lớn nhanh nhưng phải bị nhốt đứng một chỗ. Tôi có cảm tưởng như sự tiến bộ đã cướp mất tuổi thơ của nhiều trẻ em thời đại.
Nhớ lại tuổi thơ, tôi thấy mình thật hạnh phúc vì được tự do bay nhảy. Vừa tan trường về nhà là tôi đã “biến”. Thôi thì đủ thứ trò chơi: từ câu cá, bắn chim, bắt dế, leo trèo, tắm sông, đá bóng, đánh bi, đánh trỏng cho đến …đánh lộn. Sung sướng nhứt là chẳng phải bị một ông bố hay một bà mẹ kè kè bên cạnh. Cùng lắm thì bị ông già “bạt tai” vài cái vì tội phá xóm phá làng và bị người ta mắng vốn.
Tuổi thơ của tôi nghèo nàn, thiếu thốn, nhưng đẹp. Mỗi sáng cắp sách đến trường thường chỉ được “lót lòng” bằng một ít bắp rang muối, một chén cơm nguội hay một củ khoai luộc. Hôm nào được một chút cơm chiên mỡ thì vui như được ăn tiệc. Cũng có lắm bữa sáng đến trường với cái bụng trống rỗng. Cho nên “hành trang” đến trường cũng thật nhẹ: một lọ mực với cây bút tre, một cuốn sách và một cuốn tập nhét vào phía trước bụng trong cái quần nếu không thủng đáy thì cũng vá chùm vá đụp. So với cái ba lô của học sinh ngày nay quả là một trời một vực. Lớp học có khi ồn như cái chợ, bởi vì chỉ có một bà phước mà phải làm “chủ nhiệm” đến ba cấp lớp một lúc trong cùng một cái phòng. Vậy mà không hiểu sao cuối cùng “chữ nghĩa” và các phép tính vẫn lọt vô được cái đầu của tôi.
Thật ra, dường như tôi học ở ngoài đường và trong thiên nhiên nhiều hơn trong lớp học. Cái khó không hẳn lúc nào cũng bó cái khôn mà ngược lại, có khi cũng làm cho người ta “khôn” ra. Mới 6, 7 tuổi, tôi đã biết đi câu kiếm cá cho bữa cơm chiều của cả gia đình. Tôi cũng học bờ học bụi với mấy đứa trẻ chăn trâu hơn là với bà giáo làng.
Tôi cũng chẳng cần phải được “khai tâm” về giáo dục sinh lý hay phái tính nơi học đường. Thiên nhiên là cả một trường học mà tôi nghĩ đứa trẻ “nhà quê” nào cũng tự nhiên theo học. Đâu cần phải vào sở thú hay tò mò tìm kiếm trong sách vở mới thấy được sự khác biệt giữa phái tính và nghĩa vụ truyền giống của thú vật.
Nhưng tôi cho rằng cái kiến thức vĩ đại nhứt mà tôi đã đắc thủ được trong tuổi thơ chính là “Chữ Nhẫn” của thiên nhiên và thái độ “nhẫn nha nhẫn nhục” của cha mẹ và người lớn xung quanh tôi. Tôi không rõ mình đã bắt đầu có “ký ức” từ lúc nào. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ cái lần đầu tiên tôi có kinh nghiệm về “gieo trồng”: Hột giống vừa cho xuống lòng đất được vài tiếng đồng hồ đã bị tôi moi lên để xem nó biến chuyển như thế nào. Phải qua nhiều lần “thí nghiệm” như thế tôi mới học được bài học cơ bản của cuộc sống: hạt giống cần phải được chôn vùi trong lòng đất, phải chờ đợi một thời gian mới nẩy mầm. Và cũng từ đó, tôi cũng hiểu được rằng việc gì cũng cần phải có thời gian.
Nhưng nể phục nhứt vẫn là cái gương “nhẫn nha nhẫn nhục” của cha mẹ “nông dân” của tôi và những người dân quê chất phác. Quanh năm ngày tháng đầu tắt mặt tối, chẳng bao giờ biết thế nào là một “cuối tuần” hay “holidays”, vậy mà lúc nào họ cũng cứ vui vẻ, “vô tư”. Những từ như “stress”, “trầm uất” làm gì có trong cái vốn liếng từ ngữ nghèo nàn của họ.
Ngày nay, mỗi độ mùa Xuân trở về, tôi lại nhớ đến bài học vỡ lòng về chữ Nhẫn ấy. Ba tháng mùa Đông, dường như cái gì trong thiên nhiên cũng ngủ và chờ đợi. Trước hết là đàn cá trong cái hồ lộ thiên trong vườn. Bước vào tháng Sáu, chúng trốn biệt dưới đám bèo. Có bỏ bao nhiêu thức ăn, có dụ dỗ đến cỡ nào, chúng cũng không chịu chường mặt ra. Đây là một tín hiệu tốt cho dân câu cá, đừng thử thời vận làm gì cho tốn công. Vậy mà tôi vẫn không chịu đón nhận cái tín hiệu ấy cho nên tuần nào cũng vác cần câu đi rồi vác cần câu về không. Câu cá cũng giống như đánh bạc: càng “khát nước”, càng cố gỡ càng thua. Có những đêm đứng lạnh cóng một mình bên bờ vịnh, chờ đến 2, 3 tiếng đồng hồ mà miếng mồi vẫn còn trơ trơ ra đó. Nếu chẳng may vớ được một con cá đui, mang về mổ bụng ra, tôi thấy nó ốm tong ốm teo, không có lấy một chút thức ăn trong ruột. Các tín hữu Công giáo mỗi năm chỉ ăn chay có hai ngày. Các tín đồ Hồi giáo nhịn ăn chỉ từ lúc mặt trời lên cho đến lúc mặt trời xuống trong một tháng Ramadan. Nhưng cá nước ngọt tôi nuôi trong hồ và cá trong vịnh nước mặn thì “ăn chay” đến cả ba tháng ròng rã.
Không những cá mới “tịnh khẩu” mà dường như cây cỏ trong vườn cũng ăn chay nữa. Cứ bước vào mùa Đông thì dù có bón phân hay chăm sóc đến đâu, mấy cái cây trong vườn của tôi cũng cứ “trơ” ra đó. Chúng nó ngủ vùi suốt ngày.
Mấy hạt giống thì còn tuyệt vời hơn. Thách thức mấy lời chỉ dẫn của các nhà sản xuất hạt giống, bước vào mùa Đông mà tôi vẫn cứ gieo bừa rồi tìm cách ủ cho ấm. Chờ mãi cũng không thấy hạt nào chịu nẩy mầm cả.
Vậy mà bước vào mùa Xuân, chẳng hiểu tiếng chuông của đồng hồ sinh thái báo hiệu như thế nào mà động vật, thực vật đều thức dậy cả. Cá như thiền sư xuống núi. Chim chóc chẳng hiểu từ đâu bay về hót inh ỏi. Hạt giống nẩy mầm. Cây cối đâm chồi nẩy lộc. Hoa thì khỏi nói: có bao nhiêu mầu sắc đều khoe cả!
Quả thực, như nhà hiền triết Qohelet trong sách Giảng Viên của Kinh Thánh Do thái và Kitô giáo đã nhận xét:
“Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
một thời để chào đời, một thời để lìa thế;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây;
một thời để giết chết, một thời để chữa lành;
một thời để phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhảy;
một thời để quăng đá, một thời để lượm đá;
một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn;
một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất;
một thời để giữ lại, một thời để mất đi;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng;
một thời để yêu thương, một thời để thù ghét;
một thời để gây chiến, một thời để làm hòa.”
(Giảng viên 3,1-8)
Người Việt nam ngày xưa cũng sống theo cái triết lý ấy:
“Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng Ba thì đậu đã già,
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng Tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng Năm.
Sáng ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.
Sắp tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới về nhà nghỉ ngơi.
Cỏ lúa đã dọn sạch rồi,
Nước rộng vơi, mười còn độ một, hai.
Ruộng thấp đóng một gầu giai,
Ruộng cao thì phải đóng hai gầu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng Mười,
Ta đem liềm, hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt lúa, ta đem về nhà,
Phơi khô, quét sạch, ấy là xong công”
(Bảo Vân, Tục ngữ, Ca dao và Dân ca, Quê hương, Canada 1979, trg 95-96)
Sống theo cái nhịp điệu ấy của thiên nhiên cho nên ông bà chúng ta lúc nào cũng thư thả. Lúc nhỏ, đi theo cha mẹ ra ruộng, tôi chưa thấy có ai “chạy” cả. Tất cả mọi người đều thong thả tiến bước. Người ta cũng chẳng phải giành giựt, lấn lướt nhau. Người ta cũng vừa làm việc vừa hò hát, chứ chẳng phải cắm đầu cắm cổ mà lao động đến độ không biết đến người bên cạnh hay không còn sức để chào hỏi.
Trong xã hội văn minh ngày nay, người ta chạy nhiều hơn đi. Lúc nào cũng phải vội vàng. Lúc nào cũng phải làm nhanh. Thức ăn phải làm cho nhanh đã đành, mà nhịp điệu của thiên nhiên cũng bị thúc bách cho nhanh hơn. Chỉ mới 45 ngày, bầy gà con ở thôn quê chưa kịp lẻ mẹ, thì con gà công nghiệp đã lớn đủ để được đưa vào lò sát sinh. Trong khi rau cải trồng theo nhịp điệu tự nhiên vẫn còn “bé bỏng”, thì những thứ trồng trong dung dịch đặc biệt phải lớn nhanh cho kịp đà tiêu thụ.
Nói chi đến gia súc và thực vật, trẻ con trong xã hội văn minh ngày nay cũng phải chạy bở hơi tai mới kịp đà tiến bộ. Mới chập chững bước đi đã phải đi đến nhà trẻ. Vừa tới tuổi cắp sách đến trường đã phải học đủ thứ. Hết học ở trường lại học thêm với các gia sư. Tuổi thơ mà phải “học chạy” như thế quả là một bất hạnh và cũng là một bất công. Học hành tự nó chẳng bao giờ có giới hạn về thời gian. Cũng như hạt giống, chẳng ai thúc bách được sự “nẩy mầm” trong chuyện học hành.
Nhưng vốn được tạo thành theo nhịp điệu của thiên nhiên, cho nên con người lúc nào cũng muốn quay trở lại với nhịp điệu ấy. Gà “đi bộ” vẫn được chuộng hơn gà công nghiệp. Bất cứ hoa quả hay rau cỏ nào có dán mấy chữ “organic” (nghĩa là trồng theo nhịp điệu tự nhiên) cũng có giá hơn những thứ được sản xuất nhanh và hàng loạt. Gần đây, đã có một số cha mẹ nghĩ đến việc đưa trẻ nhỏ về nhà quê sống trong suốt thời tiểu học để con cái họ được hưởng một môi trường lành mạnh, thoải mái. Họ quan niệm rằng với tiến bộ của tin học, họ vẫn có thể làm việc  bán thời tại nhà, con cái họ vẫn có thể hấp thụ một chương trình học đầy đủ mà không cần ở nơi đô hội đầy bụi bặm và nhiều vấn nạn.
Cũng có lẽ do rã rời vì chạy theo sự tiến bộ, xem chừng con người lại khao khát trở về với thiên nhiên. Con người thích đi bộ hơn chạy, thích thư thả hơn hối hả. Chả thế mà hằng năm Canada lại dành một ngày trong mùa Hè để làm “ngày không vội vã”. Phải có một ngày như thế là đủ biết con người trong xã hội văn minh ngày nay sống “hối hả” như thế nào.
Sống hối hả có nghĩa là sống như thể không còn thời giờ để mà vui hưởng cuộc sống. Người sống hối hả chẳng khác nào một tay đua chạy mà không biết mình chạy về đâu.
Người không “hối hả” là người biết sống bình thản trong mọi hoàn cảnh để hưởng nếm mỗi giây phút hiện tại và dĩ nhiên hài lòng với cuộc sống của mình.

Một bài thơ bằng tiếng Phạn khuyên như sau: “Mỗi ngày, nếu được sống một cách tốt đẹp, sẽ làm cho ngày hôm qua trở thành một giấc mơ hạnh phúc và ngày mai trở thành một cái nhìn đầy hy vọng. Do đó, hãy sống mỗi ngày, bởi vì chỉ có sống mỗi ngày mới thực sự là sống.” (Gillian Stokes, Contentment, wisdom from Around the World, trg 120).
Tại sao mỗi năm chỉ có “một ngày không vội vã”, mà không là “365 ngày không vội vã” để thấy rằng ngày nào cũng đẹp và ngày nào cũng đều đáng được tận hưởng?



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét