Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Về miền thơ ấu



Chu Thập
16.9.16

Một học sinh thuộc sắc tộc thiểu số ở Việt Nam tên là Ksor Sôn, 11 tuổi, “vào buổi sáng khai trường, bụng đói không có gì ăn, không có quần áo vừa vặn, phải mặc bộ quần áo đồng phục cũ từ năm xửa năm xưa, vừa chật vừa rách nát...đã không đi đến trường mà treo cổ chết trên một cành cây cách nhà 40 mét”. Câu chuyện thương tâm trên đây đã được dư luận trong nước bàn tán xôn xao. Riêng trên Việt Báo online ngày 11 tháng 9 vừa qua, câu chuyện được “minh họa” bằng một bức hình của một cậu bé chân lấm tay bùn, đầu trần, mình trần, với chiếc quần “xà  lỏn” sà xuống khỏi mông, đang cố gắng tải một gánh mạ. Tôi tin chắc đây là một bức tranh tả thực về cuộc sống của rất nhiều thiếu nhi Việt Nam hiện nay. Nó gợi lên cả một thảm cảnh của không biết bao nhiêu trẻ em Việt Nam ngày nay. Có em đã phải bỏ học để tự lực cánh sinh và đỡ đần cho gánh nặng kinh tế của gia đình. Có em không có đủ quần áo, tiền học nên phải bỏ học. Có em phải lặn lội trèo non lội suối giữa những hiểm nguy khôn lường để đến trường. Nhưng bức tranh ấy sẽ không đầy đủ nếu không kể đến vô số những đứa trẻ không những không được cắp sách đến trường mà cũng chẳng có đủ miếng cơm manh áo hàng ngày cho nên phải lang thang đầu đường xó chợ.
Ngắm bức hình  cậu bé đang gánh mạ, tôi không thể không nghĩ đến tuổi thơ của tôi. Mùa Đông năm 1967, trong vụ án thường được mệnh danh là “Xét lại Chống Đảng” ở Miền Bắc, nhà văn Vũ Thư Hiên đã bị Cộng sản Việt Nam bắt giam vào nhà tù Hỏa Lò. Trong bài tựa cho lần tái bản tại hải ngoại của quyển hồi ký “Miền Thơ Ấu” được cảm ứng từ chốn ngục tù ấy, nhà văn Vũ Thư Hiên đã giải thích: “Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà công nhân quét đường đốt lên để sưởi ấm, bên kia bức tường đá của nhà ngục. Ở quê tôi, người ta thường đốt những những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối không hạ xuống vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt xào xà lim bỗng dưng gây nên nỗi nhớ cồn cào  da diết.
Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt, thả hồn về quá khứ, tự hứa với mình rằng thế nào cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một quê để mà nhớ”.
Bước vào tuổi “thất thập cổ lai hy”, tôi cảm thấy nhớ quê và nhớ đến tuổi thơ hơn bao giờ hết. Chưa từng bị tù đày và cũng chưa  rơi vào từng đáy địa ngục của cuộc sống bao giờ, nhưng cứ mỗi lần nhìn thấy hay nghe nói đến thảm cảnh của trẻ thơ Việt Nam hiện nay, tôi lại thấy mình trở về quê hương và về lại “miền thơ ấu”của tôi. Cái xóm giáo nhỏ ở ngoài Bắc của nhà văn Vũ Thư Hiên vào những năm trước khi cộng sản cướp chính quyền cũng không khác bao nhiêu so với cái xóm giáo nơi tôi được sinh ra và lớn lên: cũng nhỏ nhoi và nghèo khổ và cũng gắn liền với tuổi thơ của tôi! Và cũng như với nhà văn Vũ Thư Hiên, dù cái xóm giáo của tôi có bùn lầy nước đọng và nghèo khổ đến đâu, nó đã cho tôi được trải qua một thời “tuyệt đẹp”, đẹp  hơn bất cứ giai đoạn nào trong cuộc sống của tôi. Đúng như nhà văn Vũ Thư Hiên đã viết: “Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể dành cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương”.
Tôi không giữ được hay đúng hơn cũng chẳng bao giờ có được một bức hình nào của tuổi thơ. Có chăng thì cũng chỉ được thu hình và giữ  kín trong ký ức của tôi. Nhưng nếu có ai ghi tên tuổi của tôi vào bên dưới bức hình của cậu bé gánh mạ, thì chẳng có vinh dự nào lớn hơn dành cho tôi. Sáu bảy tuổi tôi đã biết “ra đồng”, lội  bì bõm trong bùn, đem mạ non đến cho người ta cấy, bắt cua mò ốc như một nhà nông chính hiệu. Đó là chưa kể đến sự đóng góp của tôi vào kinh tế gia đình khi tôi đi câu cá, cắm câu hoặc bắn chim, bắt ếch, đào chuột để tăng thêm chất đạm cho các bữa ăn của cả nhà.
Trong cái xóm giáo nghèo của tôi, nhà tôi không giàu mà cũng chẳng nghèo rớt mồng tơi. Ngoại trừ một năm phải ăn cơm độn với khoai lang, hầu như trong nhà tôi lúc nào cũng có một bồ lúa đầy và một khạp đường đen. Nhưng về cái khoản may mặc thì có lẽ gia đình tôi cũng chẳng hơn giai cấp bần cố nông bao nhiêu. Mãi cho đến năm 12 tuổi tôi mới thực sự làm quen với giép “Nhựt” hay đôi “xanh đan”. Còn quần áo của tôi  thì cũng như cậu bé gánh mạ, không thủng đáy thì cũng lòi mông hoặc vá chùm vá đụp. Với bộ quần áo chẳng bao giờ được tươm tất và nhứt là với mái tóc cháy sám đến độ vàng hoe vì nắng cũng có mà vì thiếu dinh dưỡng cũng có, nếu gán cho tôi cái tên “thằng mọi” thì có lẽ hơi xúc phạm cho “thằng mọi”. Vậy mà ngày ngày tôi vẫn tỉnh bơ cắp sách đến trường. Trong cái xóm giáo của tôi, đa số học sinh đều bình đẳng trong sự nghèo nàn cả. Cho nên làm gì có cái mặc cảm rách nát trong tôi. Nhưng tôi thích học bờ học bụi hơn là học ở nhà trường. Những đứa trẻ chăn trâu có khi lại dạy cho tôi nhiều bài học hơn là thày cô giáo. Tuổi thơ của tôi đẹp vì được sống giữa thiên nhiên, gần với thiên nhiên và dĩ nhiên cũng gần với cuộc sống hơn. Tôi học được bài học yêu thiên nhiên, yêu đời và cũng yêu người từ giai đoạn đẹp nhứt trong cuộc sống là chính tuổi thơ. Tuổi thơ dạy tôi tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống đơn giản mỗi ngày.
Tôi nghĩ có lẽ đương kim tổng thống Mỹ Barack Obama cũng có cùng một suy nghĩ ấy. Dường như tuổi thơ cũng đã dạy cho ông nhiều bài học.  Một trong những hình ảnh đẹp nhứt của vị nguyên thủ đệ nhứt siêu cường thế giới này có lẽ là lúc ông cầm nguyên một trái dừa trên tay và thưởng thức hương vị ngọt ngào của   nước dừa tại Lào, nhân dịp tham dự hội nghị thượng đỉnh các nước Đông Nam Á  dạo đầu tháng 9 vừa qua. Ông nói với người dân Lào rằng chuyến viếng thăm đất nước của họ làm ông nhớ lại thời thơ ấu của ông tại Nam Dương. Ông đã sinh ra ở Hawaii, tiểu bang có nhiều cây dừa nhứt của Hoa Kỳ. Ông trải qua thời thơ ấu tại Nam Dương, một trong những nước có nhiều dừa nhứt thế giới. Theo tiểu sử chính thức của Tổng thống Barack Obama như được Tòa Bạch Ôc tóm tắt, ông chào đời tại Tiểu bang Hawaii. Năm 1967, sau khi chia tay với cha ông, một người Kenya, mẹ ông đã tái giá với một người Nam Dương. Ông đã được mẹ mang sang Nam Dương và sống với người dượng ghẻ cho đến năm 1971. Tại đây, như ông đã ghi lại trong quyển hồi ký “Dreams from My Father” (những giấc mơ từ cha tôi), chỉ không đầy sáu tháng sau, ông đã  nói được tiếng Nam Dương và làm quen được với phong tục tập quán của người bản xứ. Ông đã kết thân với những đứa trẻ ở thôn quê, sớm tối cùng thả diều, bắt dế như mọi đứa trẻ khác. Nhưng quan trọng hơn cả chính là cuộc sống lam lũ của người nông dân Nam Dương. Vị tổng thống tương lai của Hoa Kỳ ghi lại trong quyển hồi ký rằng ông đã hiểu được thế nào là nỗi buồn, niềm đau của họ mỗi khi gặp nắng hạn, mùa màng cháy rụi hay những lúc ngập lụt kéo dài cả tháng trời. Với một tâm hồn nhậy cảm, luôn biết quan tâm đến người khác, về sau người thanh niên Obama đã đi sinh hoạt trong phong trào hướng đạo và sau khi tốt nghiệp đại học đã tích cực tham gia vào các công tác  thiện nguyện.
Nhìn từ bên ngoài, có lẽ tuổi thơ của Tổng thống Obama không phải là một  chuỗi ngày hạnh phúc và đẹp nhứt trong cuộc đời của ông. Nhưng khó mà chối cãi rằng “những giấc mơ từ cha tôi” và chính giấc mơ của riêng ông “lớn lên tôi muốn làm tổng thống” đã được dệt từ tuổi thơ ấy. Chính cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, niềm cảm thông với nỗi khổ đau của những người nông dân nghèo đã tạo ra nơi ông một tâm hồn nhậy cảm và quyết tâm phục vụ tha nhân của ông. Hai nhiệm kỳ tổng thống của ông sắp chấm dứt. Có người bảo ông chẳng làm được gì đáng để đời trong 8 năm qua. Nhưng ít nhứt, dưới con mắt của tôi, cả cuộc đời của ông cũng đã là một thành tựu vĩ đại và là hiện thực của điều được gọi là “giấc mơ Hoa Kỳ”. Không quá cường điệu, nhưng nếu bảo rằng tuổi thơ đầy sóng gió của ông đã ảnh hưởng đến cuộc hành trình tiến về sự thành toàn nhân cách và đỉnh cao sự nghiệp của ông không phải là quá đáng.
Thật ra có lẽ tôi đã “suy bụng ta ra bụng người”. Tôi thường trở về miền thơ ấu của tôi là vì đây là giai đoạn tuyệt vời nhứt trong cuộc đời của tôi. Ít ra cho tới nay những bài học vỡ lòng về học làm người tôi đã học được đều xuất phát từ tuổi thơ của tôi. Tuổi thơ đã cho tôi được sống gần thiên nhiên. Tuổi thơ đã cho tôi nếm được cảnh nghèo và không ngừng nhắc nhở tôi về sự cảm thông phải có đối với người nghèo, nhứt là trẻ em nghèo.
Tuổi thơ vẫn luôn sống mãi trong tôi như chính tiếng nói của lương tâm về thảm cảnh mà trẻ thơ trên khắp thế giới ngày nay đang trải qua. Theo một bản phúc trình mới nhứt của Quỹ Nhi Đồng  UNICEF của Liên Hiệp Quốc, hiện trên toàn thế giới có gần 50 triệu trẻ em bị “bứng” đi khỏi cuộc sống bình thường. Trong số này có 28 triệu em bị di tản ra  khỏi nhà vì các cuộc xung đột và hàng triệu triệu em khác cùng với gia đình rời bỏ quê hương để tìm một cuộc sống tốt đẹp và an toàn hơn tại một nước khác. Không nói đến những nguy hiểm của cuộc vượt biển, rất nhiều em trong khi trốn chạy đã bị chấn thương tâm lý vì bom đạn và bạo động cũng như phải đối đầu với tình trạng đói khát, bị bắt cóc, hãm hiếp và ngay cả bị sát hại. Ngoài ra khi đến xứ lạ quê người, bị kỳ thị là điều không thể tránh khỏi.
Hình ảnh của trẻ thơ như cậu bé Aylan Kurdi 3 tuổi bị chết đuối và trôi dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ cách đây một năm và mới đây  của cậu bé Omran Daqneesh, 5 tuổi, mình mẩy máu me ngồi bất động trên một chiếc xe cứu thương...không ngừng nhắc nhở tôi về thảm cảnh của 50 triệu trẻ em trên khắp thế giới bị “bứng” đi khỏi cuộc sống bình thường, nhứt là những đứa trẻ khốn khổ đang chết dần chết mòn trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Trở về “miền thơ ấu” của mình, lúc nào tôi cũng nghe vọng lại tiếng kêu thảm thiết của không biết bao nhiêu trẻ em bị tước đoạt giai đoạn đẹp nhứt của cuộc đời là tuổi thơ.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét