Chu Thập
09.09.16
Tuần này tôi
thường nghĩ đến hai nhân vật lịch sử. Một là đồ tể Mao Trạch Đông, người mà hôm
nay, 9 tháng 9, đánh dấu đúng 40 năm
ngày qua đời. Hai là Mẹ Terexa Calcutta, người vừa được Giáo hội Công giáo
phong thánh hôm Chúa nhựt 4 tháng 9 vừa qua. Cả hai đều được xem là những con
người có nhiều quyền lực nhứt trong lịch sử nhân loại. Chỉ khác một điều là với
Mao Trạch Đông, như chính ông đã từng tuyên bố, quyền lực xuất phát từ lò thuốc
súng. Trong bài diễn văn kết thúc khóa họp thứ 6 của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng
Sản Trung Quốc ngày 6 tháng 11 năm 1938, Mao Trạch Đông kêu gọi: “Tất cả mọi
người cộng sản đều phải nắm bắt chân lý này: “Quyền lực chính trị xuất phát từ
lò thuốc súng”. “Chân lý” này xét cho cùng cũng chỉ là sự diễn giải cụ thể của
câu nói quen thuộc: “Lý lẽ thuộc về kẻ mạnh” hay như Thi sĩ Pháp Jean de La
Fontaine đã nói trong bài thơ ngụ ngôn “Con chó sói và con chiên”: “lý của kẻ mạnh
luôn thắng thế” (la raison du plus fort est toujours la meilleure). Trong suốt
sự nghiệp “cách mạng” của ông, Mao Trạch Đông đã luôn thực hiện “chân lý” ấy.
Lò thuốc súng của bạo lực và dĩ nhiên của hận thù do ông châm ngòi đã khiến cho
trên dưới 50 triệu người Trung Hoa bị sát tế trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa. Tựu
trung, để xây dựng thiên đàng cộng sản trong đó mọi quyền sinh sát đều nằm
trong tay ông, Mao Trạch Đông đã triệt để áp dụng luật đào thải xã hội và tiêu
diệt mọi thành phần yếu kém, những người không có lấy tấc sắt hay bất cứ ngòi
thuốc nổ nào trong tay. 50 triệu người đã bị hy sinh để xây dựng vương quốc của
những con người mới xã hội chủ nghĩa như thế giới đã nhìn thấy tận mắt tại
Trung Cộng và Việt Nam hiện nay. Đó là “di
sản” mà Mao Trạch Đông đã để lại cho nhân loại, chớ không riêng Trung Cộng.
Ngày thứ Ba
20 tháng 4 năm 1990 là một ngày khó quên trong “lịch sử” của những cuộc bắn giết
hàng loạt xảy ra như cơm bữa trong xã hội Mỹ ngày nay. Hai học sinh trung học
đã vác súng xông vào trường Columbine
High School tại Tiểu bang Colorado. Họ đã nã súng giết 12 học sinh, một thày
giáo và gây thương tích cho hơn 20 học sinh khác. Sau đó họ quay súng vào người
và tự tử. Trong chính ngày thực hiện cuộc bắn giết, một trong hai học sinh này
mang trên người một chiếc áo thun đen với hàng chữ “Đào thải tự nhiên” (Natural
Selection) được viết trước ngực. Đây là một chi tiết nói lên ý nghĩa sâu xa của
hành động giết người tập thể này. Sự “đào thải tự nhiên” trong thuyết tiến hóa
của Charles Darwin (1809-1882) đã được hai học sinh của Trường Columbine sử dụng
như động lực thúc đẩy cuộc bắn giết. Không phải tất cả, nhưng hầu hết các nhà
cách mạng bạo động đều đi theo con đường này.
Darwin đã
cho xuất bản tác phẩm “Về nguồn gốc các chủng loại” (On the Origin of Species)
năm 1859. Một thập niên sau, lý thuyết về sự đào thải trong thiên nhiên của
Darwin đã được nhiều người ứng dụng vào
xã hội loài người. Người ta diễn dịch rằng trong xã hội loài người, sự đào thải
tự nhiên cho phép kẻ mạnh và những thành phần ưu thế trong xã hội khai thác, sử
dụng và ngay cả tiêu diệt những người yếu thế. Một trong những người đầu tiên
có lối diễn dịch ấy không ai khác hơn là ông tổ của chủ nghĩa Marxit. Không lạ
gì Karl Marx (1818-1883) đã muốn đề tặng tác phẩm “Tư bản luận” (Das Kapital) của
ông cho ông Darwin. Nhưng Darwin đã từ chối vinh dự này.
Cách Karl
Marx gần nửa thế kỷ, năm 1925 Adolf
Hitler đã cho xuất bản cuốn “Cuộc chiến đấu của tôi” (Mein Kampf). Một trong những
ý tưởng chủ đạo trong tác phẩm này dĩ nhiên cũng là sự đào thảo tự nhiên trong
xã hội loài người, qua đó những thành phần ưu thế của xã hội có quyền sử dụng bạo
lực để thanh lọc chủng tộc và dòng giống. Trong một đoạn, ông viết: “Nếu Thiên
nhiên không muốn để cho những cá nhân yếu kém được sống với những thành phần mạnh
thế, thì Thiên nhiên cũng chẳng muốn một chủng tộc mạnh chung đụng với một chủng
tộc yếu kém; bởi lẽ nếu để cho điều đó xảy ra thì mọi nỗ lực của Thiên nhiên xuyên
qua hàng trăm ngàn năm...sẽ trở thành vô ích”.
Tư tưởng hướng
dẫn hành động của con người. Kể từ cuối tháng Giêng năm 1933, khi Hitler lên cầm
quyền tại Đức, một trong những chủ trương của ông là tiêu diệt 6 triệu người Do
Thái mà ông cho là chủng tộc yếu kém và thành phần cặn bã của xã hội. Trong cuộc
thanh lọc chủng tộc, ông cũng đã ra lệnh tiêu diệt tất cả những bệnh nhân tâm
thần, những kẻ khuyết tật...
Nhưng với cuộc
“đào thải tự nhiên” trong xã hội loài người ấy, Hitler chỉ giết 6 triệu người
Do Thái, trong khi đó từ Lenin đến Stalin, qua Mao Trạch Đông đến Hồ Chí Minh
và Pol Pot và bao nhiêu đồ tể cộng sản khác trên khắp thế giới, như được một số
cựu đảng viên Cộng Pháp đã thu thập trong cuốn sách “Hắc thư của chủ nghĩa cộng
sản” (Le Livre Noir du Communisme) xuất bản hồi năm 1999, không dưới 100 triệu
người đã bị giết trong các chế độ cộng sản. Riêng Mao Trạch Đông, với các chính
sách không tưởng như “Bước nhảy vọt vĩ đại” và điều được gọi là “Cuộc cách mạng
văn hóa” đã một mình sát tế đến một nửa số nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Quyền
lực từ lò thuốc súng quả là một quyền lực
điên cuồng.
Quyền lực
đích thực luôn đi đôi với trách nhiệm. “Quyền lực càng lớn trách nhiệm càng nhiều”
(with great power comes great responsiblity). Không rõ nhân vật lịch sử nào đã
thốt lên câu nói này, nhưng đã được nhân vật “Benjamin Ben Parker” thường được
gọi là Bác Ben trong cuốn phim “Spiderman” lập lại với cậu cháu có sức mạnh phi
thường của mình. Người xem phim hiểu được tại sao lúc nào “Người Nhện” cũng chỉ
dùng sức mạnh của mình để cứu người, chớ không phải để hại người.
Trong tuần
này khi nghĩ đến Mao Trạch Đông tôi cũng
liên tưởng đến Mẹ Terexa Calcutta. Không phải vì việc phong thánh cho người phụ
nữ nhỏ bé này diễn ra trong cùng một tuần
lễ với ngày kỷ niệm sự qua đời của Mao Trạch Đông, mà vì người phụ nữ này cũng
có một quyền lực đáng kể. Nếu hiểu quyền lực là khả năng có thể ảnh hưởng trên
quyết định của người khác thì Mẹ Terexa Calcutta cũng có một quyền lực như thế.
Trong các chế độ độc tài, nhứt là độc tài toàn trị trong đó sự khủng bố và sợ
hãi do chế độ áp đặt lên người dân có thể sai khiến họ và ngay cả điều khiển và
lèo lái tư tưởng của họ. Nếu Mẹ Terexa Calcutta đã có một ảnh hưởng lớn đối với
rất nhiều người trên thế giới, cách riêng các tín hữu công giáo, là bởi quyền lực
của Mẹ không xuất phát từ lò thuốc súng, mà từ tấm lòng vị tha quảng đại và hy
sinh cho đến cùng của Mẹ. Nơi con người nhỏ bé và nghèo hèn này chỉ có một sức
mạnh đó là sức mạnh của phục vụ. Cũng nơi người phụ nữ nhỏ bé này, quyền lực
luôn đi đôi với trách nhiệm: trách nhiệm đối với những con người thấp bé, nghèo
đói, khốn cùng nhứt trong xã hội, từ một thai nhi trong bụng mẹ cho đến những
người hấp hối nằm vất vưởng bên lề đường. Nhiều người không tán thành cách giải
quyết vấn đề xã hội cũng như cung cách quản lý của Mẹ Terexa Calcutta. Người ta
bảo: Mẹ chỉ trao cho người nghèo con cá thay vì đưa cho họ một chiếc cần câu.
Thật ra với những con người không còn đủ sức để đứng vững trên hai chân hay vận
dụng chính đôi tay của mình thì lấy đâu sức lực để cầm nổi chiếc cần câu! Mẹ
Terexa Calcutta không có chủ chương giải quyết những vấn đề lớn của xã hội. Mẹ
đã từng nói: nếu bạn không có đủ cơm bánh cho một trăm người ăn thì ít nhứt hãy
san sẻ cho một người đang đói.
Giáo hội
Công giáo đã phong thánh cho Mẹ. Phong thánh là cả một tiến trình nhiêu khê.
Con đường từ cuộc sống dẫn đến bàn thờ để được tôn vinh như một vị thánh trong
Giáo hội Công giáo đòi hỏi đến cả hai phép lạ. Phép lạ thường được hiểu như một
sự lành bệnh lạ lùng mà y khoa không thể giải thích được và được gán cho sự can
thiệp của vị thánh. Sau khi đã điều tra cặn kẽ, Giáo hội Công giáo nhìn nhận rằng
Mẹ Terexa Calcutta đã xứng đáng để được phong thánh vì nhờ Mẹ cầu thay nguyện
giúp mà Thiên Chúa đã “can thiệp” để “tạm ngưng” các định luật tự nhiên và như
vậy phép lạ đã xảy ra.
Ngày nay,
khoa học ngày càng vén mở nhiều bức màn bí mật. Có những điều trước kia được
xem là phép lạ hay bí ẩn nay được giải mã để được đón nhận như những sự kiện
bình thường trong vũ trụ và trong cuộc sống con người. Trong cuộc sống đức tin,
tôi ít khi chờ đợi các phép lạ như thường xảy ra trong các cuộc phong thánh của
Giáo hội Công giáo. Với tôi, cả cuộc sống của Mẹ Terexa Calcutta đã là một phép
lạ vĩ đại rồi. Phép lạ diễn ra trước tiên trong cái nhìn của Mẹ về con người. Nếu
với những đồ tể như Hitler hay Mao Trạch Đông, sự tiến hóa của loài người chỉ
được hiểu như một cuộc đào thải tự nhiên qua đó kẻ mạnh cần phải loại trừ người
yếu, những thành phần thấp kém trong xã hội cần phải được hy sinh để cho xã hội
loài người được tốt đẹp hơn và người người chủ trương mạnh ai nấy sống, mạnh được
yếu thua...thì với Mẹ Terexa Calcutta, mỗi một con người sinh ra trên cõi đời
này, nhứt là những thành phần thấp kém nhứt trong xã hội, đều có một phẩm giá bất
khả di nhượng và bất khả xâm phạm. Trong cái nhìn ấy, một thai nhi còn trong
lòng mẹ cũng được quyền sống như mọi người và một người đang hấp hối bên lề đường
hay vất vưởng trong ống cống vẫn đáng được chết với tất cả phẩm giá của một con
người.
Một cái nhìn
như thế về phẩm giá con người không phải là độc quyền của Mẹ Terexa Calcutta.
Nhưng từ cái nhìn đến sự dấn thân và cuộc sống là một khoảng cách vô tận. Mẹ
Terexa Calcutta đã vượt qua được khoảng cách đó. Mẹ đã có thể ôm ấp vào lòng
các bệnh nhân phong cùi, những tấm thân ghẻ lạnh đang chờ chết. Với tôi cử chỉ
đó đã là một phép lạ phi thường rồi. Phải có một sức mạnh, một quyền lực phi
thường con người mới có thể ra khỏi chính mình để xóa bỏ một khoảng cách như thế.
Hiểu như thế
về phép lạ, tôi tin rằng thế giới vẫn luôn tràn ngập phép lạ. Phép lạ không chỉ
diễn ra trong lãnh vực khoa học với những bước nhảy vọt mà đầu óc chậm lụt của
tôi không theo kịp và cũng chẳng hiểu gì. Phép lạ xảy ra hàng ngày mỗi khi phẩm
giá của những con người thấp kém nhứt trong xã hội được nhìn nhận, tôn trọng và
yêu thương. Phép lạ được thể hiện qua bất cứ một cử chỉ quảng đại, phục vụ, cảm
thông và quên mình mà con người có thể làm cho nhau.
Một khi được
đưa lên bàn thờ, các thánh đã được bao phủ bởi một hào quang và do đó có khi trở
thành xa lạ với con người. Tôi thích chiêm ngưỡng những vị thánh bằng xương bằng
thịt trước mắt tôi hơn. Chỉ cần một cử chỉ tỏa sáng của họ mà tôi bắt gặp trong
cuộc sống hàng ngày cũng đủ để mang lại cho tôi niềm cảm hứng và thúc đẩy tôi sống
tử tế hơn với người đồng loại. Đó là phép lạ tôi thường chứng kiến và luôn mong
đợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét