Chu Thập
26.8.16

Trong một
bài phóng sự dành cho Đài Truyền Hình BBC, nhà văn kiêm kiến trúc sư Mỹ gốc
Syria, Lina Sergie Attar đã theo dõi và ghi lại những chuyển động của pho tượng sống
ấy. Cậu bé ngồi trên chiếc ghế của xe cứu thương, hoàn toàn bất động. Cậu nhìn
về phía trước mà không hề nháy mắt. Nhưng rồi bức tượng lại cử động. Cậu sờ vầng
trán ướt đẫm máu me của mình, rồi nhìn hai bàn tay cũng vấy máu của mình. Sau một
phút do dự, cậu bé chùi tay vào thành ghế, một cách vô tư như thể đang tìm kiếm
một đồ chơi.
Một lần nữa
thế giới lại sửng sốt về hình ảnh của một đứa bé. Hình ảnh của em đã tràn ngập
trang bìa của tất cả những tờ báo lớn trên thế giới cũng như các trang mạng xã
hội. Hình như gần đây cứ mỗi dạo cuối hè thì thế giới lại chú ý đến thảm kịch của
Syria xuyên qua những hình ảnh của những đứa trẻ đang đau khổ. Cách đây 3 năm, thế
giới đã nhìn thấy hình ảnh của những đứa trẻ bị nghẹt thở vì bom hơi ngạt tại
vùng ngoại ô Ghouta của Thủ đô Damascus. Những đứa trẻ này trông chẳng khác nào
những con búp bê bằng sành được xếp thành hàng dài để tô lên một lớp phấn sáp.
Cách đây một
năm, thế giới cũng đã bị chấn động bởi bức
hình của một bé trai Syria khác tên là Alan Kurdi, chết đuối và trôi dạt vào một
bờ biển của Thổ Nhĩ Kỳ khi cùng với gia đình vượt biển sang Hy Lạp như hàng triệu
người tỵ nạn khác. Alan Kurdi đã trở thành biểu tượng của số phận của triệu triệu
người tỵ nạn trên khắp thế giới trong năm 2015.
Cuối hè năm
nay dường như biểu tượng ấy lại được kế tục trong “pho tượng” Omran Daqneesh.
Nhưng tiếc thay, theo nhà văn Lina Sergie Attar, mỗi năm những hình ảnh như thế
đã được hàng triệu triệu “dân cư mạng” “thích” (like) và tức khắc gợi lên cơn
phẫn nộ, lòng trắc ẩn, sự cảm thương
cũng như thúc đẩy những cuộc quyên góp và trao tặng cho các tổ chức cứu trợ và
từ thiện, nhưng chỉ vài tuần hay vài ngày sau đó, dưới ánh mặt trời chẳng có gì
mới mẻ, mọi sự đều trở lại như cũ, người ta quên đi hình ảnh của thảm kịch của
người dân Syria và trên 65 triệu người đang quằn quại trong các trại tỵ nạn
trên khắp thế giới. Những cuộc không kích của Chính phủ Syria và Đồng minh Nga
vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên người dân vô tội. Tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi
giáo” vẫn cứ tiếp tục hành hạ và tàn sát người dân trong những vùng họ kiểm
soát. Số người chết ngày càng nhiều và cuộc khủng hoảng tỵ nạn ngày càng leo
thang. Cộng đồng thế giới và Liên Hiệp Quốc cũng đành bó tay chào thua. Một năm
nữa sắp kết thúc. Một mùa hè nữa lại đến. Rồi đây có lẽ một hình ảnh đau thương
khác của trẻ thơ cứ đến hẹn lại xuất hiện.
Các cuộc tấn
công bằng vũ khí hóa học, cảnh người dân
tan tác chạy trốn, những trái bom dội xuống, những cuộc tra tấn...kể từ năm
2011 đến nay, bất cứ một hành động tàn bạo nào của chiến tranh cũng đều trực tiếp
ảnh hưởng đến trẻ thơ. Bởi lẽ tất cả mọi trẻ thơ như cậu bé Omran, kể từ lúc mở
mắt chào đời với tiếng khóc cho đến nay chỉ biết có mỗi một thực tại là chiến tranh. Đối với hàng triệu trẻ em chào
đời và lớn lên trong cuộc nội chiến tại Syria, cuộc sống hàng ngày lúc nào cũng
u ám, nhưng tương lai của các em lại càng ảm đạm hơn. Ở trong nhà, các em là mục
tiêu của những cuộc không kích và hỏa tiễn. Sống trong những vùng bị bao vây,
dù từ bên nào, các em cũng chỉ biết đói khát và bệnh tật. Cắp sách đến trường
là điều chỉ có trong trí tưởng tượng của nhiều em. Còn nếu có được đi học thì
trường học hay con đường dẫn đến trường lúc nào cũng có thể biến thành tử địa.
Nếu cùng với gia đình trốn sang biên giới của một nước khác, rất có thể các em
sẽ bị cưỡng bách phải lao động để giúp đỡ gia đình. Đó là chưa kể đến vô số những
hiểm nguy đang chờ đợi trước mắt như chết chìm giữa đại dương, bị nhốt trong
các trại giam...Và cuối cùng, nếu được may mắn đặt chân đến một nơi an toàn tại
một nước khác ở Tây Phương, các em có thể trở thành nạn nhân của kỳ thị và ngay
cả thù hận. Đi đâu, ở đâu các em cũng đều bị ruồng bỏ.
Đó là sự thật
mà có lẽ “pho tượng sống” Omran Daqneesh muốn nói lên bằng cái nhìn thinh lặng
và cam chịu của em. Em nhìn vào ống kính truyền hình. Em nhìn vào lương tâm của
bất cứ ai nhìn em để nói lên chính sự thinh lặng của thế giới trước nỗi khổ đau
tột cùng của trẻ con và người dân Syria cũng như tất cả mọi người tỵ nạn trên
khắp thế giới. Gần gũi với Omran Daqneesh hơn cả có lẽ là số phận của trên 700
ngàn trẻ em Yemen đang chết dần chết mòn vì bom đạn và thiếu ăn trong cuộc chiến
tranh vô nghĩa mà có lẽ thế giới gần như không muốn nhắc đến.
Kể từ ngày
thứ Tư 17 tháng 8 vừa qua, khi bức hình của “pho tượng sống Omran Daqneesh” được
phổ biến đi khắp thế giới, ánh mắt của cậu bé đã không ngừng theo đuổi tôi để
tra vấn và cảnh cáo tôi về một trong những hiểm nguy khủng khiếp nhứt trong cuộc
sống con người. Đó là thái độ dửng dưng, bất động, sự vô cảm và xem thường cái
ác. Một cách nào đó, đó là cái chết của lương tâm. Đó là thông điệp mà có lẽ cậu
bé Omran Daqneesh muốn gởi đến cho riêng tôi bằng cái nhìn thinh lặng của cậu.
Năm 1960,
Adolf Eichmann, người được xem là kiến trúc sư của cuộc diệt chủng người Do
Thái do Đức Quốc Xã chủ xướng trong thời Đệ nhị Thế chiến, đã bị cơ quan tình
báo Do Thái Mossad bắt giữ và đưa về Jerusalem để xét xử. Trong chiến tranh,
Eichmann được Hitler bổ nhiệm làm giám đốc đặc trách việc chuyên chở người Do
Thái vào các trại tập trung. Ông là người phối hợp tất cả mọi chuyến xe lửa chở
người Do Thái đến các lò sát sinh ở Đông Âu. Khi Đức Quốc Xã sụp đổ, Eichmann
trốn sang Á Căn Đình, Châu Mỹ La Tinh. Tại đây ông làm đốc công trong một xưởng
ráp xe Mercedes Benz của Đức. Ông hy vọng sẽ sống “yên lành” và vô danh trong quãng đời còn lại.
Nhưng một
người nổi tiếng như ông làm sao có thể qua mắt được cơ quan tình báo Mossad. Dù
vậy, họ cũng đã phải bỏ ra suốt một thập
niên mới bắt được ông. Tháng 5 năm 1960, Eichmann đã bị bắt và dẫn độ về Jerusalem
để chịu xét xử. Đây có lẽ là một trong những vụ án nổi tiếng nhứt của thế kỷ.
Báo The New Yorker của Mỹ đã cử một phóng viên nổi tiếng là bà Hannah Arendt (1906-1975)
đến Jerusalem để theo dõi và tường thuật về vụ án.
Hannah
Arendt chào đời trong một gia đình Do Thái tại Wilhelmine, Đức năm 1906. Trong
thời kỳ theo học thần học tại Đại học Marburg, bà đã từng gặp gỡ và làm quen với
triết gia nổi tiếng Martin Heidegger. Năm 1933, bà bị cơ quan mật vụ Gestapo của
Đức Quốc Xã bắt giữ vì tội thu thập tài liệu về cuộc tuyên truyền bài Do Thái.
Bà trốn sang Paris, nhưng bị bắt lại và đưa về một trại giam ở Đức. Nhưng một lần
nữa, bà đã may mắn đào thoát được và cùng với chồng di dân sang Hoa Kỳ và hành
nghề ký giả. Năm 1951, bà đã cho xuất bản tác phẩm “Nguồn gốc của các chế độ
toàn trị” (The Origins of Totalitarianism) trong đó bà so sánh Đệ tam Đế chế của
Đức Quốc Xã với Chế độ Cộng sản của Stalin.
Cuộc xét xử
đồ tể Eichmann được Ký giả Arendt theo dõi và tường thuật đã kéo dài 14 tuần lễ.
Ông đã bị kết án với 15 tội ác chống lại nhân loại. Tháng 5 năm 1962, Eichmann
đã bị treo cổ. Đây là vụ xử tử duy nhứt trong quốc gia Israel kể từ khi nước
này được thành lập hồi năm 1948.
Bài phóng sự
về vụ xét xử Eichmann do bà Arendt thực hiện có tựa đề “ Eichmann in Jerusalam:
A Report on the Banality of Evil” (Eichmann tại Jerusalem: phóng sự về việc xem
thường cái Ác). Kết thúc bài phóng sự, bà Arendtd đã để lại một thuật ngữ rất
thường được nhắc đến mỗi khi nói đến cái Ác là “The Banality of Evil” (xem thường
cái Ác). Theo nữ ký giả này, Eichmann đã phạm tội ác khi tham dự vào cuộc diệt
chủng người Do Thái với tất cả ý muốn tự do và quyết tâm của ông. Sau Hitler,
ông là nhân vật chủ chốt trong cuộc diệt chủng. Nhưng Ký giả Arendt cho rằng
ông tham gia vào cuộc diệt chủng không vì theo chủ trương bài Do Thái, cũng chẳng
vì ác ý và cũng chẳng vì bất cứ một ý thức hệ nào. Ông phạm tội ác chỉ vì muốn
tuyệt đối tuân lệnh cấp trên là Hitler và vì muốn được thăng tiến trong sự nghiệp
mà thôi. Hiểu một cách đơn giản về thuật ngữ
“xem thường cái Ác” của Ký giả Arendt, nơi đồ tể Eichmann không có khả
năng phân biệt thiện ác, không có ý thức về tội ác hay đúng hơn, lương tâm hoàn
toàn bị tê liệt. Ông có thể là một “quái vật” vì đã phạm tội ác tày đình, nhưng
ông là một mẫu người bình thường như mọi người Đức bình thường khác, những người
đang sống vui vẻ và hài hòa với những người láng giềng Do Thái, bỗng một hôm biến
thành đồ tể để đi săn lùng họ.
Ngày nay, nếu
muốn đi tìm những con người “xem thường cái Ác” như đồ tể Eichmann, có lẽ người
ta chỉ cần tìm đến với tổ chức khủng bố “Quốc gia Hồi giáo”. Với tổ chức khủng
bố này, bất cứ một con người vô tội nào cũng có thể là đối tượng để tàn sát và
tàn sát bằng những cách thế mà có khi thế giới văn minh không dám tưởng tượng tới:
lạnh lùng, dửng dưng, vô cảm như máy móc! Trước đây, tổ chức này “cực đoan hóa”
thành phần thanh niên thiếu nữ. Nay như vừa mới xảy ra tại Thổ Nhĩ Kỳ hay tại
Iraq, những kẻ ôm bom tự sát để giết hại những người vô tội lại là trẻ con. Làm
sao có thể tưởng tượng được trường hợp một chiến binh của tổ chức này tại Iraq
đã cài bom vào cậu con trai mới 12 tuổi của mình và sai đi tự sát để giết hại
những người vô tội?
Nghĩ đến điều
mà ký giả Arendt gọi là “xem thường cái Ác”, tôi không thể không nghĩ đến một Tổng
thống Assad của Syria và ngay cả một tổng thống Nga Vladimir Putin, những người
đã có thể nhẫn tâm sai ném bom vô tội vạ xuống những khu dân cư ở Aleppo để tạo
ra một pho tượng sống như Omran Daqneesh.
Dĩ nhiên,
nói đến những kẻ “xem thường cái Ác”, trong một mức độ nào đó, tôi cũng nghĩ đến
điều thường được gọi là thái độ “vô cảm” trong các xã hội cộng sản như Trung Cộng
hay Việt Nam: vô cảm trước tội ác, vô cảm trước nỗi khổ đau của người đồng loại.
Nhưng càng
ngắm nhìn “pho tượng sống Omran Daqneesh” tôi lại càng nghĩ đến chính mình và lời
cảnh cáo của cậu bé với cái nhìn câm lặng này. Ánh mắt thơ dại ấy như trách móc
tôi rằng trong cuộc sống, biết bao lần
tôi cũng đã “xem thường cái Ác” và nhứt là vô cảm trước nỗi khổ đau của người đồng
loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét