Chu Thập
29.1.13
Có lẽ người Việt tỵ
nạn nào cũng hãnh diện về đất nước mình đã chọn làm quê hương thứ hai. Tôi hãnh
diện được làm công dân Úc và tôi thấy đất nước này có nhiều điều đáng ca ngợi.
Tôi nghĩ đến trước tiên cuộc sống thanh bình. Tôi không cho rằng mình quá chủ
quan khi đề cao khía cạnh này. Rất nhiều người đến thăm Úc một lần cũng nhìn nhận
rằng đây là một đất nước thanh bình. Trong trường học, vào siêu thị, ở bãi đậu
xe, ngồi trong rạp xi nê…chẳng có ai phải lo sợ bị một kẻ điên loạn nào đó xách
súng đến bắn loạn xà ngầu vào đám đông.
Tôi thầm cám ơn cựu
thủ tướng John Howard.
Buổi sáng ngày 28
tháng 4 năm 1996 đã trở thành một trong những ngày buồn thảm nhứt trong lịch sử
Úc đại lợi. Tại địa điểm du lịch nổi tiếng của tiểu bang Tasmania là Port
Arthur, một thanh niên 28 tuổi tên là Martin Bryant đã xông vào một quán cà
phê, dùng súng hạ sát 12 người và làm bị thương trên 10 người. Sau đó, tên cuồng
sát chạy vào một tiệm bán đồ kỷ niệm gần đó và bắn hạ thêm một số người nữa. Chưa
chịu bỏ cuộc, tên sát nhân còn chạy ra chỗ đậu xe gần đó và nổ súng vào một số
xe buýt. Chuyện xảy ra như chỗ không người. Tổng cộng có đến 35 người bị sát hại.
Cả Úc đại lợi đã bị
chấn động. Phẫn nộ trước cuộc thảm sát, 85 phần trăm dân chúng Úc ủng hộ việc hạn
chế và kiểm soát súng ống cá nhân. Chính phủ do Liên Đảng cầm đầu dưới quyền
lãnh đạo của Thủ tướng John Howard đã thông qua được một số luật mới nhằm kiểm
soát việc sử dụng súng cá nhân một cách chặt chẽ hơn. Những người có súng riêng
đã tuân thủ một cách triệt để: đã có khoảng 643.000 khẩu súng tự động và bán tự
động được mang trao nộp cho chính phủ.
Riêng về số phận của
kẻ sát nhân, phần lớn người dân Úc đều nhìn nhận rằng Martin Bryant là một
thanh niên có chỉ số thông minh dưới mức trung bình và mắc bệnh tâm thần phân
liệt. Dù vậy, anh vẫn bị kết án 35 năm tù.
Kể từ sau khi Thủ
tướng Howard ban hành một số luật mới về việc kiểm soát súng ống cá nhân, Úc đại
lợi không còn phải chứng kiến một vụ thảm sát tập thể nào nữa. Dĩ nhiên, điều
đó không có nghĩa là trong xã hội Úc sẽ không có hay không còn những con người
điên loạn có thể làm càn khi có cơ hội và có phương tiện trong tay.
Ở đâu và thời nào
mà xã hội loài người không có người bị tâm thần hay điên loạn. Và có lẽ chỉ có
những kẻ điên loạn mới cầm súng bắn giết những kẻ không có bất cứ ân oán nào
với mình và ngay cả người thân của mình.
Tôi vẫn còn nhớ
như in chuyện xảy ra trong làng tôi vào giữa thập niên 1960: một buổi trưa hè
nóng bức, một người đàn ông đã từng được chữa trị trong nhà thương điên Chợ
Quán, đã đè cổ người cha ruột của mình ra cắt lưỡi và sau đó chạy lên nhà thờ
giáo xứ để đâm xối xả vào ông cha sở.
Tôi nhìn vấn đề thật
đơn giản: những kẻ cuồng sát, dù ở tuổi nào, cũng đều là những con người điên
loạn. Đừng giao trứng cho ác là xong. Để ngăn ngừa những hành động sát nhân phi
lý, giải pháp tốt nhứt là đừng để những kẻ điên cuồng có được khí giới độc hại
trong tay. Người dân Úc và Chính phủ Úc đã giải quyết được vấn đề ấy. Trong khi
đó thì cho tới nay, Hoa kỳ vẫn còn lấn qua cấn lại. Cứ tưởng vụ thảm sát tại một
trường tiểu học ở Newtown, tiểu bang Connecticut vào giữa tháng 12 năm vừa qua
là tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng cho Mỹ quốc. Nhưng chỉ không đầy 2 tháng vừa
qua, thế giới lại chứng kiến thêm nhiều vụ bắn giết nữa mà thủ phạm dĩ nhiên lại
cũng là những người điên loạn hay có tâm lý bất thường. Cho tới nay, Chính phủ
Hoa kỳ vẫn chưa thông qua được luật kiểm soát súng ống.
Hai tháng trước
khi người học sinh trung học tên là Adam Lanza lấy súng của mẹ, hạ sát bà và chạy
đến trường tiểu học Sandy Hook để sát hại 20 em học sinh tiểu học và 8 người
khác, người Mỹ cũng đã chứng kiến một vụ bắn giết khác mà thủ phạm cũng là một
thanh niên 17 tuổi tên là Jake Evans. Ngày 3 tháng 10 năm 2012, người thanh
niên cư dân của tiểu bang Texas này đã xách súng bắn mẹ và em gái của mình. Hôm
thứ Năm 21 tháng Giêng vừa qua, trong một bản tự thú dài 4 trang đọc trước tòa,
Evans thú nhận rằng cậu đã giết chết mẹ và em gái là do đã coi một cuốn phim
ghê rợn.
Tác phẩm điện ảnh
mà thủ phạm vị thành niên này nói đến là cuốn phim có tựa đề “Halloween”. Những
cảnh giết người ghê rợn trong cuốn phim đã ám ảnh cậu đến độ cậu muốn lập lại
những cảnh ấy. Cuốn phim sản xuất năm 2007 nói về một cậu bé tuy chỉ mới 10 tuổi,
nhưng đã ám sát nhiều người. 15 năm sau, cậu còn giết thêm nhiều người nữa.
Trong bản tự thú,
Evans viết: “Khi xem phim, tôi chới với về chuyện sát thủ ra tay quá dễ dàng và
không ân hận gì cả. Tôi nghĩ nếu mình hành động như thế thì cũng vậy thôi”.
Thế là tối hôm đó,
khi thấy mẹ và em gái đang ngồi xem hai ông Obama và Romney tranh luận trên
truyền hình, Evans nghĩ: “Mình thử tàn sát gia đình để xem như thế nào”. Cậu đã
ăn cắp khẩu súng lục của ông ngoại và làm điều mà cậu nói “để thử xem như thế
nào”. Bi thảm nhứt trong vụ này là khi thấy ông anh chĩa súng vào người mình,
cô em gái Mallory cứ tưởng như đùa. Sau khi bắn vào lưng và đầu cô em gái,
Evans xách súng chạy đi tìm bà mẹ và bắn vào người bà 3 phát (x.Calitoday
25/1/2013).
Do ảnh hưởng của
phim ảnh và có sẵn khí giới giết người trong tay, những người có tâm lý không
bình thường hay bệnh hoạn đã có hành động sát nhân. Nói chung, con người chịu
tác động mạnh của xã hội. Tốt cũng có, nhưng xấu thì nhiều hơn. Từ cổ chí kim,
các triết gia và các nhà xã hội học cứ phải tranh luận với nhau về bản tính con
người. Lạc quan thì cho rằng tự bản chất, con người sinh ra là hoàn toàn tốt,
nhưng bị xã hội làm cho bại hoại. Bi quan hơn, có người lại nói rằng con người
tự bản chất là xấu xa. Vốn quen suy nghĩ theo niềm tin tôn giáo và nhìn lại
kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy rằng “Con người không là thiên thần mà cũng
chẳng là ác quỷ”. Thiện và ác cùng hiện hữu trong mỗi một con người. Trong mỗi
người, lúc nào cũng diễn ra cuộc song đấu giữa thiện và ác. Có người, ai mới
nhìn vào cũng bảo là thiên thần, nhưng trong phút chốc lại hiện nguyên hình ác
quỷ. Có kẻ tưởng chỉ sinh ra để làm điều gian ác, nhưng rồi phút chốc lại hoán
cải, hoàn lương. Chính vì có thiện có ác mà mới có tự do và trách nhiệm. Và
chính vì có trách nhiệm cho nên mới có trừng phạt và tưởng thưởng.
Chẳng có ai sinh
ra đã là kẻ sát nhân cả. Ảnh hưởng của xã hội là điều không thể chối cãi được. Càng
văn minh thì càng có nhiều tiếp cận với đủ mọi hình thức bạo động. Theo thống
kê, cứ trong năm người Úc thì có một người từng bị tâm thần hay có triệu chứng
tâm thần. Bệnh tâm thần giờ đây phát triển rất sớm từ tuổi thanh thiếu niên và
đang được các nhà xã hội học coi như một nghịch lý của thời đại (Li, J,
McMurray, A, Stanley, F 2008, ‘Modernity’s paradox and the structural
determinants of child health and well-being’, Health sociology review, vol 17-1, pp 64-77). Tâm thần hiện đang trở
thành một trong 6 bệnh “dịch” và “được” chính phủ Úc xếp loại “ưu tiên”
(www.aifs.gov.au/institute/pubs/resreport8/ch2.pdf).
Đó là thống kê Úc nơi ít có chuyện giết người hàng loạt, còn ở Mỹ thì tôi không
biết.
Tôi liên tưởng đến
cuốn phim có tựa đề “Natural born killers” (những kẻ giết người bẩm sinh) do đạo
diễn Mỹ nổi tiếng Oliver Stone thực hiện hồi năm 1994. Chuyện phim xoay quanh một
cặp tình nhân đi đến đâu giết người đến đó. Trong một cuộc gặp gỡ với một ký giả
mà họ báo trước sẽ giết sau cuộc phỏng vấn, cặp tình nhân này khẳng định rằng họ
là “những kẻ giết người bẩm sinh”, nghĩa là mang sự độc ác từ trong trứng nước
và chỉ biết hành động một cách độc ác. Thật ra, cuốn phim không nói đến quá khứ
của người thanh niên. Nhưng riêng về người thiếu nữ có một cảnh hồi tưởng cho
thấy cô đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình không mấy lành mạnh: lúc nhỏ
cô đã bị người cha lạm dụng tình dục và bị người mẹ bỏ bê. Một bối cảnh gia
đình như thế như muốn gợi lên rằng gia đình, tức xã hội, đã có tác động không tốt
lên sự phát triển tâm lý của người thiếu nữ. Cô đã ngã vào vòng tay của một
thanh niên giết người không gớm tay một cách dễ dàng và do đó cũng chiều theo những
khuynh hướng độc ác của anh ta.
Có lẽ cuốn phim
không muốn đưa ra luận đề cho rằng có những “kẻ giết người bẩm sinh” cho bằng
nhấn mạnh đến những ảnh hưởng xấu của xã hội. Thật vậy, một trong những tấm bảng
quảng cáo cho cuốn phim có đoạn viết: “Một cuốn phim mới đưa ra một cái nhìn về
một xứ sở bị lôi kéo bởi danh vọng, bị ám ảnh bởi tội ác và bị thiêu đốt bởi
truyền thông”.
Bảng quảng cáo
trên đây diễn tả đúng cái đất nước được nhiều người xem như một “giấc mơ”. Kỳ
thật đó cũng là nơi người ta thấy rõ truyền thông và những trào lưu xấu ảnh hưởng
đến con người nhiều nhứt.
Thật ra, ở đâu
cũng thế thôi. Ý thức hay không, con người không thể tránh khỏi ảnh hưởng của
xã hội. Môi trường tốt giúp cho cái thiện trong con người phát triển. Một xã hội
đẫy dẫy tệ nạn, bất công và trống rỗng cũng làm cho con người bại hoại.
Nhiều người dựa
vào nguyên tắc “ở đâu cũng thế” để bào chữa cho những tệ nạn và sự hủy hoại con
người do một chế độ đồi bại tạo ra. Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã có một bài nhận
định về thái độ này. Ông viết: “Kiểu phân bua như vậy có thể thấy ngay trong phần
Ý kiến ở blog này. Mỗi khi chúng ta bàn đến một khuyết điểm nào đó ở Việt nam,
không thể bào chữa, những người bênh vực cho chế độ thường đưa ra luận điểm: những
khuyết điểm như thế ở đâu mà chả có? Việt Nam tham nhũng ư? -Ừ, nhưng ở Nhật,
Hàn Quốc, Úc, Pháp, Anh, và ngay cả Mỹ cũng có tham nhũng đấy chứ! Công an Việt
nam đánh dân một cách tàn bạo ngay trên đường phố ư? - Ừ, nhưng ở Mỹ, cảnh sát
cũng vẫn đánh dân mà!
Cứ thế, họ cho tất
cả những gì tệ hại ở Việt nam cũng đều có mặt ở mọi nơi trên thế giới, kể cả những
nước giàu có, văn minh và dân chủ nhất. Bằng cách ấy, người ta hy vọng có thể
vô hiệu hóa mọi sự phê phán nhắm vào chính quyền Việt nam” (VOA, Blog/Nguyễn
Hưng Quốc).
Quả vậy, ở đâu
cũng có tệ nạn. Ở đâu cũng có cái xấu, cái ác. Nhưng khác với “cái lỗ hổng đạo
đức” không đáy của Việt Nam, ở các nước có dân chủ tự do và nhứt là chủ trương thăng
tiến những giá trị đạo đức, xã hội luôn cố gắng tạo điều kiện để điều thiện và
những giá trị nhân bản được triển nở hầu thắng được điều ác và những khuynh hướng
xấu trong con người. Xây dựng xã hội cũng có nghĩa là phát huy những giá trị đạo
đức.
Người Việt Nam da
vàng ở đâu cũng vẫn là người Việt nam. Cũng cầm đũa ăn cơm, cũng nói tiếng Việt,
cũng cố gắng duy trì truyền thống dân tộc. Nhưng nhìn chung, người ta vẫn thấy
có sự khác biệt giữa người Việt đang định cư ở những nước dân chủ tự do và người
Việt đang sống dưới chế độ cộng sản. Khác không phải ở sự giàu có hay trong
cách ăn mặc, mà có khi ở hai tiếng “xin lỗi” và “cám ơn”. Bởi lẽ hai tiếng đơn
giản ấy phản ảnh cả một cung cách, một tâm thức đầy nhân bản và tình người mà
nhiều người Việt trong nước đã đánh mất, nhưng người Việt hải ngoại hoặc tiếp tục
duy trì hoặc học được từ đất nước và xã hội đã cưu mang họ.
Hai tiếng ấy đã hầu
như trở thành một bản năng mới của tôi.Tôi hãnh diện được làm một công dân Úc.
Tôi cũng mang ơn cái xã hội đã luôn tạo điều kiện để tôi học hỏi và trau dồi
nhiều đức tính nhân bản giúp tôi kềm hãm được phần nào cái ác trong tôi và phát
huy tính thiện vốn cũng ẩn trong tôi. Và dĩ nhiên, tôi cũng ý thức rằng mỗi lần
tôi cố gắng sống tử tế và tôn trọng công ích là mỗi lần tôi góp phần vào việc
làm cho quê hương thứ hai của tôi thành một nơi tốt đẹp và đáng sống hơn cho
tôi và cho nhiều người khác.
Ở đâu cũng thế,
tôi cần góp phần làm cho xã hội được tốt đẹp hơn bởi sống trong xã hội tốt thì
cái tốt trong tôi mới càng dễ triển nở được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét