Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016

Ở đâu cũng thế…



Chu Thập
29.1.13


Có lẽ người Việt tỵ nạn nào cũng hãnh diện về đất nước mình đã chọn làm quê hương thứ hai. Tôi hãnh diện được làm công dân Úc và tôi thấy đất nước này có nhiều điều đáng ca ngợi. Tôi nghĩ đến trước tiên cuộc sống thanh bình. Tôi không cho rằng mình quá chủ quan khi đề cao khía cạnh này. Rất nhiều người đến thăm Úc một lần cũng nhìn nhận rằng đây là một đất nước thanh bình. Trong trường học, vào siêu thị, ở bãi đậu xe, ngồi trong rạp xi nê…chẳng có ai phải lo sợ bị một kẻ điên loạn nào đó xách súng đến bắn loạn xà ngầu vào đám đông.
Tôi thầm cám ơn cựu thủ tướng John Howard.
Buổi sáng ngày 28 tháng 4 năm 1996 đã trở thành một trong những ngày buồn thảm nhứt trong lịch sử Úc đại lợi. Tại địa điểm du lịch nổi tiếng của tiểu bang Tasmania là Port Arthur, một thanh niên 28 tuổi tên là Martin Bryant đã xông vào một quán cà phê, dùng súng hạ sát 12 người và làm bị thương trên 10 người. Sau đó, tên cuồng sát chạy vào một tiệm bán đồ kỷ niệm gần đó và bắn hạ thêm một số người nữa. Chưa chịu bỏ cuộc, tên sát nhân còn chạy ra chỗ đậu xe gần đó và nổ súng vào một số xe buýt. Chuyện xảy ra như chỗ không người. Tổng cộng có đến 35 người bị sát hại.
Cả Úc đại lợi đã bị chấn động. Phẫn nộ trước cuộc thảm sát, 85 phần trăm dân chúng Úc ủng hộ việc hạn chế và kiểm soát súng ống cá nhân. Chính phủ do Liên Đảng cầm đầu dưới quyền lãnh đạo của Thủ tướng John Howard đã thông qua được một số luật mới nhằm kiểm soát việc sử dụng súng cá nhân một cách chặt chẽ hơn. Những người có súng riêng đã tuân thủ một cách triệt để: đã có khoảng 643.000 khẩu súng tự động và bán tự động được mang trao nộp cho chính phủ.
Riêng về số phận của kẻ sát nhân, phần lớn người dân Úc đều nhìn nhận rằng Martin Bryant là một thanh niên có chỉ số thông minh dưới mức trung bình và mắc bệnh tâm thần phân liệt. Dù vậy, anh vẫn bị kết án 35 năm tù.
Kể từ sau khi Thủ tướng Howard ban hành một số luật mới về việc kiểm soát súng ống cá nhân, Úc đại lợi không còn phải chứng kiến một vụ thảm sát tập thể nào nữa. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là trong xã hội Úc sẽ không có hay không còn những con người điên loạn có thể làm càn khi có cơ hội và có phương tiện trong tay.
Ở đâu và thời nào mà xã hội loài người không có người bị tâm thần hay điên loạn. Và có lẽ chỉ có những kẻ điên loạn mới cầm súng bắn giết những kẻ không có bất cứ ân oán nào với mình và ngay cả người thân của mình.
Tôi vẫn còn nhớ như in chuyện xảy ra trong làng tôi vào giữa thập niên 1960: một buổi trưa hè nóng bức, một người đàn ông đã từng được chữa trị trong nhà thương điên Chợ Quán, đã đè cổ người cha ruột của mình ra cắt lưỡi và sau đó chạy lên nhà thờ giáo xứ để đâm xối xả vào ông cha sở.
Tôi nhìn vấn đề thật đơn giản: những kẻ cuồng sát, dù ở tuổi nào, cũng đều là những con người điên loạn. Đừng giao trứng cho ác là xong. Để ngăn ngừa những hành động sát nhân phi lý, giải pháp tốt nhứt là đừng để những kẻ điên cuồng có được khí giới độc hại trong tay. Người dân Úc và Chính phủ Úc đã giải quyết được vấn đề ấy. Trong khi đó thì cho tới nay, Hoa kỳ vẫn còn lấn qua cấn lại. Cứ tưởng vụ thảm sát tại một trường tiểu học ở Newtown, tiểu bang Connecticut vào giữa tháng 12 năm vừa qua là tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng cho Mỹ quốc. Nhưng chỉ không đầy 2 tháng vừa qua, thế giới lại chứng kiến thêm nhiều vụ bắn giết nữa mà thủ phạm dĩ nhiên lại cũng là những người điên loạn hay có tâm lý bất thường. Cho tới nay, Chính phủ Hoa kỳ vẫn chưa thông qua được luật kiểm soát súng ống.
Hai tháng trước khi người học sinh trung học tên là Adam Lanza lấy súng của mẹ, hạ sát bà và chạy đến trường tiểu học Sandy Hook để sát hại 20 em học sinh tiểu học và 8 người khác, người Mỹ cũng đã chứng kiến một vụ bắn giết khác mà thủ phạm cũng là một thanh niên 17 tuổi tên là Jake Evans. Ngày 3 tháng 10 năm 2012, người thanh niên cư dân của tiểu bang Texas này đã xách súng bắn mẹ và em gái của mình. Hôm thứ Năm 21 tháng Giêng vừa qua, trong một bản tự thú dài 4 trang đọc trước tòa, Evans thú nhận rằng cậu đã giết chết mẹ và em gái là do đã coi một cuốn phim ghê rợn.
Tác phẩm điện ảnh mà thủ phạm vị thành niên này nói đến là cuốn phim có tựa đề “Halloween”. Những cảnh giết người ghê rợn trong cuốn phim đã ám ảnh cậu đến độ cậu muốn lập lại những cảnh ấy. Cuốn phim sản xuất năm 2007 nói về một cậu bé tuy chỉ mới 10 tuổi, nhưng đã ám sát nhiều người. 15 năm sau, cậu còn giết thêm nhiều người nữa.
Trong bản tự thú, Evans viết: “Khi xem phim, tôi chới với về chuyện sát thủ ra tay quá dễ dàng và không ân hận gì cả. Tôi nghĩ nếu mình hành động như thế thì cũng vậy thôi”.
Thế là tối hôm đó, khi thấy mẹ và em gái đang ngồi xem hai ông Obama và Romney tranh luận trên truyền hình, Evans nghĩ: “Mình thử tàn sát gia đình để xem như thế nào”. Cậu đã ăn cắp khẩu súng lục của ông ngoại và làm điều mà cậu nói “để thử xem như thế nào”. Bi thảm nhứt trong vụ này là khi thấy ông anh chĩa súng vào người mình, cô em gái Mallory cứ tưởng như đùa. Sau khi bắn vào lưng và đầu cô em gái, Evans xách súng chạy đi tìm bà mẹ và bắn vào người bà 3 phát (x.Calitoday 25/1/2013).
Do ảnh hưởng của phim ảnh và có sẵn khí giới giết người trong tay, những người có tâm lý không bình thường hay bệnh hoạn đã có hành động sát nhân. Nói chung, con người chịu tác động mạnh của xã hội. Tốt cũng có, nhưng xấu thì nhiều hơn. Từ cổ chí kim, các triết gia và các nhà xã hội học cứ phải tranh luận với nhau về bản tính con người. Lạc quan thì cho rằng tự bản chất, con người sinh ra là hoàn toàn tốt, nhưng bị xã hội làm cho bại hoại. Bi quan hơn, có người lại nói rằng con người tự bản chất là xấu xa. Vốn quen suy nghĩ theo niềm tin tôn giáo và nhìn lại kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy rằng “Con người không là thiên thần mà cũng chẳng là ác quỷ”. Thiện và ác cùng hiện hữu trong mỗi một con người. Trong mỗi người, lúc nào cũng diễn ra cuộc song đấu giữa thiện và ác. Có người, ai mới nhìn vào cũng bảo là thiên thần, nhưng trong phút chốc lại hiện nguyên hình ác quỷ. Có kẻ tưởng chỉ sinh ra để làm điều gian ác, nhưng rồi phút chốc lại hoán cải, hoàn lương. Chính vì có thiện có ác mà mới có tự do và trách nhiệm. Và chính vì có trách nhiệm cho nên mới có trừng phạt và tưởng thưởng.
Chẳng có ai sinh ra đã là kẻ sát nhân cả. Ảnh hưởng của xã hội là điều không thể chối cãi được. Càng văn minh thì càng có nhiều tiếp cận với đủ mọi hình thức bạo động. Theo thống kê, cứ trong năm người Úc thì có một người từng bị tâm thần hay có triệu chứng tâm thần. Bệnh tâm thần giờ đây phát triển rất sớm từ tuổi thanh thiếu niên và đang được các nhà xã hội học coi như một nghịch lý của thời đại (Li, J, McMurray, A, Stanley, F 2008, ‘Modernity’s paradox and the structural determinants of child health and well-being’, Health sociology review, vol 17-1, pp 64-77). Tâm thần hiện đang trở thành một trong 6 bệnh “dịch” và “được” chính phủ Úc xếp loại “ưu tiên” 
(www.aifs.gov.au/institute/pubs/resreport8/ch2.pdf)
Đó là thống kê Úc nơi ít có chuyện giết người hàng loạt, còn ở Mỹ thì tôi không biết.
Tôi liên tưởng đến cuốn phim có tựa đề “Natural born killers” (những kẻ giết người bẩm sinh) do đạo diễn Mỹ nổi tiếng Oliver Stone thực hiện hồi năm 1994. Chuyện phim xoay quanh một cặp tình nhân đi đến đâu giết người đến đó. Trong một cuộc gặp gỡ với một ký giả mà họ báo trước sẽ giết sau cuộc phỏng vấn, cặp tình nhân này khẳng định rằng họ là “những kẻ giết người bẩm sinh”, nghĩa là mang sự độc ác từ trong trứng nước và chỉ biết hành động một cách độc ác. Thật ra, cuốn phim không nói đến quá khứ của người thanh niên. Nhưng riêng về người thiếu nữ có một cảnh hồi tưởng cho thấy cô đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình không mấy lành mạnh: lúc nhỏ cô đã bị người cha lạm dụng tình dục và bị người mẹ bỏ bê. Một bối cảnh gia đình như thế như muốn gợi lên rằng gia đình, tức xã hội, đã có tác động không tốt lên sự phát triển tâm lý của người thiếu nữ. Cô đã ngã vào vòng tay của một thanh niên giết người không gớm tay một cách dễ dàng và do đó cũng chiều theo những khuynh hướng độc ác của anh ta.
Có lẽ cuốn phim không muốn đưa ra luận đề cho rằng có những “kẻ giết người bẩm sinh” cho bằng nhấn mạnh đến những ảnh hưởng xấu của xã hội. Thật vậy, một trong những tấm bảng quảng cáo cho cuốn phim có đoạn viết: “Một cuốn phim mới đưa ra một cái nhìn về một xứ sở bị lôi kéo bởi danh vọng, bị ám ảnh bởi tội ác và bị thiêu đốt bởi truyền thông”.
Bảng quảng cáo trên đây diễn tả đúng cái đất nước được nhiều người xem như một “giấc mơ”. Kỳ thật đó cũng là nơi người ta thấy rõ truyền thông và những trào lưu xấu ảnh hưởng đến con người nhiều nhứt.
Thật ra, ở đâu cũng thế thôi. Ý thức hay không, con người không thể tránh khỏi ảnh hưởng của xã hội. Môi trường tốt giúp cho cái thiện trong con người phát triển. Một xã hội đẫy dẫy tệ nạn, bất công và trống rỗng cũng làm cho con  người bại hoại.
Nhiều người dựa vào nguyên tắc “ở đâu cũng thế” để bào chữa cho những tệ nạn và sự hủy hoại con người do một chế độ đồi bại tạo ra. Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã có một bài nhận định về thái độ này. Ông viết: “Kiểu phân bua như vậy có thể thấy ngay trong phần Ý kiến ở blog này. Mỗi khi chúng ta bàn đến một khuyết điểm nào đó ở Việt nam, không thể bào chữa, những người bênh vực cho chế độ thường đưa ra luận điểm: những khuyết điểm như thế ở đâu mà chả có? Việt Nam tham nhũng ư? -Ừ, nhưng ở Nhật, Hàn Quốc, Úc, Pháp, Anh, và ngay cả Mỹ cũng có tham nhũng đấy chứ! Công an Việt nam đánh dân một cách tàn bạo ngay trên đường phố ư? - Ừ, nhưng ở Mỹ, cảnh sát cũng vẫn đánh dân mà!
Cứ thế, họ cho tất cả những gì tệ hại ở Việt nam cũng đều có mặt ở mọi nơi trên thế giới, kể cả những nước giàu có, văn minh và dân chủ nhất. Bằng cách ấy, người ta hy vọng có thể vô hiệu hóa mọi sự phê phán nhắm vào chính quyền Việt nam” (VOA, Blog/Nguyễn Hưng Quốc).
Quả vậy, ở đâu cũng có tệ nạn. Ở đâu cũng có cái xấu, cái ác. Nhưng khác với “cái lỗ hổng đạo đức” không đáy của Việt Nam, ở các nước có dân chủ tự do và nhứt là chủ trương thăng tiến những giá trị đạo đức, xã hội luôn cố gắng tạo điều kiện để điều thiện và những giá trị nhân bản được triển nở hầu thắng được điều ác và những khuynh hướng xấu trong con người. Xây dựng xã hội cũng có nghĩa là phát huy những giá trị đạo đức.
Người Việt Nam da vàng ở đâu cũng vẫn là người Việt nam. Cũng cầm đũa ăn cơm, cũng nói tiếng Việt, cũng cố gắng duy trì truyền thống dân tộc. Nhưng nhìn chung, người ta vẫn thấy có sự khác biệt giữa người Việt đang định cư ở những nước dân chủ tự do và người Việt đang sống dưới chế độ cộng sản. Khác không phải ở sự giàu có hay trong cách ăn mặc, mà có khi ở hai tiếng “xin lỗi” và “cám ơn”. Bởi lẽ hai tiếng đơn giản ấy phản ảnh cả một cung cách, một tâm thức đầy nhân bản và tình người mà nhiều người Việt trong nước đã đánh mất, nhưng người Việt hải ngoại hoặc tiếp tục duy trì hoặc học được từ đất nước và xã hội đã cưu mang họ.
Hai tiếng ấy đã hầu như trở thành một bản năng mới của tôi.Tôi hãnh diện được làm một công dân Úc. Tôi cũng mang ơn cái xã hội đã luôn tạo điều kiện để tôi học hỏi và trau dồi nhiều đức tính nhân bản giúp tôi kềm hãm được phần nào cái ác trong tôi và phát huy tính thiện vốn cũng ẩn trong tôi. Và dĩ nhiên, tôi cũng ý thức rằng mỗi lần tôi cố gắng sống tử tế và tôn trọng công ích là mỗi lần tôi góp phần vào việc làm cho quê hương thứ hai của tôi thành một nơi tốt đẹp và đáng sống hơn cho tôi và cho nhiều người khác.
Ở đâu cũng thế, tôi cần góp phần làm cho xã hội được tốt đẹp hơn bởi sống trong xã hội tốt thì cái tốt trong tôi mới càng dễ triển nở được.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét