Chu Thập
12.02.13
Chúa nhựt vừa qua,
đi lễ, tôi nghe vị linh mục mở đầu bài giảng một cách khác thường. Ông kêu gọi
cử tọa hãy thử tưởng tượng đang tham gia một cuộc bầu cử chính trị. Họ sẽ chọn
một trong 3 ứng cử viên với những đặc tính cá nhân như sau: ứng cử viên thứ nhứt
là một “hũ chìm” tầm cỡ, mỗi ngày ông nốc cả chai Whisky, đó là chưa kể bia;
ông thứ hai thì mắc phải tật ngủ li bì, mỗi ngày ông thức dậy sớm nhứt là lúc
10 giờ sáng; ông thứ ba là một con người đức độ, kỷ luật và chẳng hề vướng phải
một tật xấu nào. Sau khi công bố lý lịch cá nhân của ba ứng cử viên trên đây, vị
linh mục kêu gọi giáo dân hãy bỏ phiếu bầu chọn người nào họ cho là có khả năng
và đức độ nhứt để lãnh đạo. Kết quả cuộc bỏ phiếu “tự phát” cho thấy phần lớn cử
tọa đã giơ tay ủng hộ ứng cử viên thứ ba. Sau đó, vị linh mục mới tiết lộ danh
tánh của ba ứng cử viên. Ứng cử viên có thành tích bê tha rượu chè không ai
khác hơn là tổng thống Theodore Roosevelt (1858-1919), một trong những tổng thống
nổi tiếng nhứt của Hoa kỳ trong thời Đệ Nhứt thế chiến. Ổng là vị tổng thống trẻ
nhứt trong lịch sử Hoa kỳ và đồng thời cũng là tổng thống đầu tiên được trao tặng
giải thưởng Nobel Hòa Bình.
Tôi không nghe rõ
tên của ứng cử viên thứ hai; có lẽ cũng là một chính trị gia nổi tiếng trong lịch
sử thế giới. Nhưng ứng cử viên thứ ba, người luôn sống theo kỷ luật sắt và xem
ra trổi vượt hơn cả về đức độ, lại mang một cái tên mà nghe đến có lẽ ai cũng
phải khiếp sợ: Adolf Hitler, tên đồ tể đã gây ra Thế chiến thứ hai và sát tế đến
6 triệu người Do thái trên khắp Âu châu. Thì ra, trong lịch sử nhân loại, có
khi những con người yếu đuối, bất toàn, đầy dẫy những khuyết điểm lại viết được
những trang sử vẻ vang. Trái lại, không thiếu những kẻ giả nhân giả nghĩa lấy bộ
mặt đạo đức để lừa mị và che đậy những hành tung bạo ngược, vô đạo của mình.
Cách mở đầu bài giảng
của vị linh mục không chỉ gây một ấn tượng mạnh khiến tôi đã chăm chú lắng nghe
trọn bài giảng 10 phút. Nó cũng lay động và đảo lộn cách suy nghĩ theo lối “trông mặt mà bắt hình dong” của tôi. Tôi
thấy mình dễ bị lóa mắt bởi những thứ hào nhoáng bên ngoài và nhứt là dễ bị
đánh lừa bởi những bộ mặt đạo đức hơn là thực chất bên trong. Nếu sinh ra và lớn
lên ở ngoài Bắc, có lẽ tôi cũng đã quỳ mọp xuống để tôn thờ con người suốt đời
sống đạm bạc, hy sinh ở độc thân vì tổ quốc, đề ra một mẫu mực mà cho tới nay
những người cộng sản Việt nam vẫn cứ tiếp tục ra rã đề cao như một “tấm gương đạo
đức” để mọi người phải noi theo. Ông “đạo đức” đến độ, sau khi ra lệnh giết người
hàng loạt trong vụ Cải cách ruộng đất, đã khóc ròng và lấy khăn lau nước mắt để
phủi sạch trách nhiệm của mình trong tội ác. Ông “đạo đức” đến độ đã phát động
được cuộc chiến “thần thánh” chống Mỹ cứu nước khiến cho bao nhiêu mạng sống của
người dân hai miền phải bị tế sát trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa. Có lẽ cũng như
nhiều người ở ngoài Bắc, biết đâu tôi lại chẳng bỏ phiếu để không những bầu con
người đó làm lãnh tụ mà còn tôn thờ thành thần tượng là khác.
Là con người phàm
tục, tôi thấy mình thích đi tìm thần thánh ở giữa trần gian và trong khi đi tìm
thần thánh, có lúc tôi không còn muốn chấp nhận thân phận yếu đuối của con người.
Mới đây, tôi lại cảm
thấy sửng sốt đến gần như hụt hẫng khi nghe tin Đức giáo hoàng Benedictô XVI bất
thần tuyên bố từ chức. Đây quả là một trong những biến cố lịch sử lớn nhứt
trong thế kỷ 21 này. Cách đây hơn 5 thế kỷ cũng đã có một vị giáo hoàng từ chức.
Chuyện giáo hoàng từ chức không phải là chuyện chưa từng xảy ra trong Giáo hội vốn có đến 2 ngàn năm lịch sử và hiện
đang qui tụ trên một tỷ người. Giáo luật
của Giáo hội này cũng có một khoản tiên liệu việc một đức giáo hoàng có thể từ
chức. Nhưng vốn quen thuộc với danh xưng “Đức thánh cha”, tôi vẫn cứ nghĩ rằng
một con người được phong “thánh” ngay từ trần gian này lẽ ra không được phép từ
chức, tức tỏ ra yếu đuối, ngay cả về phương diện thể lý. Nhưng trong tuyên ngôn
từ chức, vị giáo hoàng này giải thích rằng ngài buộc phải từ chức vì thấy mình
không còn đủ sức khỏe, tức khả năng thể lý, để lãnh đạo Giáo hội nữa.
Trong những ngày vừa
qua, các cơ quan truyền thông thế giới vẫn chưa cạn lời để ca tụng cũng như chỉ
trích vị giáo hoàng mà nhiều người cho là “bảo thủ” này. Riêng tôi, tôi khâm phục
vị giáo hoàng này. Ngài quả là một con người can đảm. Và sự can đảm cao cả nhứt
chính là nhận ra mình là một con người yếu đuối, với sức lực và khả năng có giới
hạn, cộng với tính bất toàn và có thể sai lầm của mình. Tôi không dám so sánh vị
giáo hoàng này với người tiền nhiệm của ngài là Đức Gioan Phaolo II. Trong mắt
tôi và dĩ nhiên, dưới ống kính của các cơ quan truyền thông thời đại, hình ảnh
cuối đời của vị giáo hoàng người Balan đã làm cho mọi người ái ngại: đôi tay
ngài lúc nào cũng run lẩy bẩy, hơi thở thều thào, nói hay đọc diễn văn một cách
hết sức khó nhọc, bước đi lạng quạng…Có lẽ không thiếu những tiếng nói gợi ý
cho ngài từ chức. Nhưng ngài vẫn một mực quyết tâm đi cho đến hết cuộc hành
trình dương thế với niềm xác tín rằng nỗi đau đớn trong thân xác mà ngài đang
trải qua là một sứ điệp về ý nghĩa của đau khổ được nhắn gởi cho con người thời
đại. Tôi không dám phê phán một vị giáo hoàng đã được Giáo hội tôn phong lên bậc
chân phước và nay mai sẽ được phong thánh. Nhưng hình ảnh của một Giáo hội mà một
vị giáo hoàng già nua, bệnh tật, yếu nhược muốn giới thiệu với thế giới ngày
nay không khỏi làm cho tôi ái ngại. Hình ảnh đó nhắc nhở cho tôi rằng dù ở ngôi
vị nào, con người thì vẫn là con người với tất cả giới hạn của nó.
Trong khi ngưỡng mộ
tài năng, đức độ của Đức Gioan Phaolo II, tôi lại càng khâm phục sự can đảm của
Đức Benedictô hơn khi ngài lấy lý do tuổi tác và sức khỏe để tuyên bố từ chức.
Chuyện một vị giáo
hoàng làm nên lịch sử khi tuyên bố từ chức lại càng củng cố tôi trong niềm xác
tín: “Sai lầm là chuyện thường tình của
con người”. Có sai lầm là bởi yếu đuối. Với niềm xác tín ấy, tôi luôn tự nhắc
nhở không những chẳng phải tôn thờ bất cứ con người nào lên hàng thần tượng hay
thần thánh mà còn phải tỏ ra cảm thông, độ lượng trước những yếu đuối và sai lầm
của người khác.
Ý tưởng này đã âm ỉ
trong tôi trong thời gian gần đây kể từ khi tin về sự ra đi của nhạc sĩ tài ba
Phạm Duy được loan tải rộng rãi trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Có lẽ
chưa có cái chết của bất cứ nhạc sĩ Việt nam nào đã tạo được nhiều âm vang cho
bằng cái chết của nhạc sĩ Phạm Duy. Đã có không biết bao nhiêu bài viết và phản
ứng về sự nghiệp và nhứt là nhân cách của người nhạc sĩ đa tài và cũng đa tình
này. Khen cũng nhiều mà chê cũng không ít.
Tôi chẳng có tư
cách nào để phê bình ông. Cả đời tôi chẳng bao giờ có tham vọng trở thành nhạc
sĩ hay ca sĩ. Biết đủ 7 nốt nhạc để xướng âm và ngâm nga năm ba bài hát là quá
sức rồi. Tôi cũng chẳng có bất cứ quan hệ hay kỷ niệm nào với nhạc sĩ Phạm Duy.
Tên tuổi ông thì quá cao sang, tôi thì quá thấp bé. Nhưng cũng như hầu hết người
Việt nam “baby boomer” (sinh sau thời Đệ nhị thế chiến), tôi hít thở không khí
nhạc của ông. Tôi thích nhứt bài “Nha Trang ngày về” của ông, bởi vì nó gợi lên
cho tôi nhiều kỷ niệm về thành phố biển nơi tôi đã sống nửa đời người trước khi
vượt biên đổi đời. Tôi còn nhớ lần đầu tiên khi về lại Nha Trang sau gần 30 năm
xa cách, tôi cũng ra biển, nghe sóng vỗ và ngân nga bài hát ấy, cho dẫu đó chưa
phải là tâm tình của mình.
Tôi nhớ về nhạc sĩ
Phạm Duy như thế đó. Tôi có theo dõi cuộc hành trình của ông: từ khu kháng chiến
“dinh tê” về Hà nội, từ Hà nội trốn chế độ cộng sản để di cư vào Nam, từ Việt
nam tỵ nạn sang Hoa kỳ và từ Hoa kỳ lại trở về Việt nam hồi năm 2005. Tại sao
ông bỏ Mỹ để trở về Việt nam là nơi ông đã bỏ ra đi? Những người viết về ông đã
đưa ra nhiều lối giải thích. Người thì bảo ông về Việt nam vì kế sinh nhai. Người
thì nói ông về đó vì “tự ái”: tại sao bao nhiêu bản “nhạc vàng, nhạc sến, nhạc
đồi trụy” của một số nhạc sĩ Miền Nam trước kia được chế độ cộng sản cho phổ biến,
còn nhạc của ông thì không? Cũng không thiếu người bảo ông mò về Việt nam để kiếm
“bồ nhí”. Chỉ có trời mới biết được những lý do sâu kín khiến người nhạc sĩ nổi
tiếng đa tình này về nước “phục lụy” chế độ cộng sản.
Tôi chẳng dám làm
thày bói để đoán mò hay phân tách gia để mổ xẻ tâm tư của ông. Tôi chỉ biết ông
là một nhạc sĩ tài ba và nhạc của ông đã nuôi dưỡng tâm tình của tôi và của
không biết bao nhiêu người Việt nam khác trong hằng bao nhiêu năm qua. Tôi chưa
một lần tôn ông làm thần tượng. Với tôi, ông cũng chỉ là một con người và nhứt
là một con người “yếu đuối”.
Tôi thưởng thức
hay hát nhạc của ông cũng như đọc những bài thơ hay những tác phẩm văn chương của
một số văn nghệ sĩ Miền Bắc trước khi họ đi theo hay bị bắt buộc phải đi theo
chế độ cộng sản như Nguyễn Tuân, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên hay ngay cả Tố
Hữu...Phải có những lúc để cho rượu điều khiển một Nguyễn Tuân mới có thể xuất
đầu lộ diện với con người thật của mình: “Chính
nhờ biết sợ mà tao sống cho đến ngày hôm nay”. Người ta không thể không cảm
thông với con người nói lên lời ấy với những giọt nước mắt rơi lả chả “giọt rơi
xuống đất, giọt rơi vào lòng”. Thật đáng khâm phục, bởi vì đó là một con người
dám nhận mình đã sống một cách hèn nhát.
Có lẽ bất cứ ai nhắm
mắt xuôi tay cũng đều để lại tiếc thương. Với nhạc sĩ Phạm Duy, tôi thấy “tiếc”.
Tiếc quá. Giả như ông không trở lại Việt nam trong những năm cuối đời thì sự ra
đi của ông sẽ để lại biết bao kính phục và thương nhớ nơi người Việt nam hải
ngoại. Nhưng tôi vẫn thấy “thương” ông. Thương ở đây là “thương cảm” cho một kiếp
người đầy truân chuyên, khi lên voi, lúc xuống chó. Xét cho cùng, cuộc đời của
người nhạc sĩ tài ba này là cả một bí ẩn, bí ẩn như kiếp người mà mỗi người
mang theo xuống mồ.
Trong một bài viết
về nhà văn Mai Thảo, nhà phê bình văn học Nguyễn Mạnh Trinh có trích dẫn một
bài thơ tứ tuyệt được khắc trên một bia mộ:
Thế
giới có triệu điều không hiểu
Càng
hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng
sao khi đã nằm trong đất
Đọc
ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Tác giả giải
thích: “Bài thơ nhan đề “Không hiểu”. Mở
ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy
ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải
đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn
ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời” (Nguyễn Mạnh Trinh,
Mai Thảo: Tháng Giêng tưởng niệm, VL18/1/13).
Mỗi người, dù có
thông minh, đĩnh đạc, tài ba đến đâu, cũng đều có những giới hạn và thiếu sót.
Nhưng cuộc đời, dù là cuộc đời của những con người khốn khổ, nghèo hèn, mạt rệp,
đần độn…cũng vẫn là vô hạn. Chính vì cuộc đời vô hạn mà “chẳng sao khi đã nằm trong đất, đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi” cho
nên bao lâu còn sống ở dương thế, đứng trước những bất toàn, yếu đuối và lầm lỡ
của người khác, chẳng có thái độ nào đúng đắn hơn là sự cảm thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét