Chu Thập
12.8.16
Những giây
phút tuyệt vời tại Thế Vận Hội không chỉ là lập được một thành tích, phá được một
kỷ lục hay thắng một đối thủ. Đôi khi
các lực sĩ được nhắc đến không phải vì một tấm huy chương mà vì một cử chỉ vị
tha. Đây là trường hợp của lực sĩ đua thuyền Gia Nã Đại Lawrence Lemieux, người
được tạp chí Reader’s Digest đề cao trong số ra tháng 8 này.
Sau cuộc thi
đấu tại Thế Vận Hội Seoul, Nam Hàn hồi năm 1988, Lemieux đã mang về nước một
huy chương mà anh không bao giờ mong đợi. Đó là huy chương của lòng quả cảm và
vị tha. Được biết khi cuộc thi đấu bắt đầu thì gió thổi mạnh đến 35 hải lý một
giờ, sóng biển ào ạt dâng cao. Lemieux đang dẫn đầu trong cuộc đua. Bỗng nhiên
anh nhận thấy đàng sau mình thuyền của hai lực sĩ đại diện cho Tân Gia Ba bị lật
úp. Cả hai đều bị thương. Một người đang chới với trong dòng nước, một người
đang cố bám vào thuyền. Nhanh như chớp, Lemieux đã quyết định ngưng cuộc đua để cứu hai lực sĩ Tân Gia Ba: anh đã kéo hai người
lên thuyền của mình. Sau khi đã trao họ cho tàu cứu hộ, anh trở lại cuộc đua và
về đến đích với hạng 22 trên 32.
Lemieux đã
được trao tặng Huy chương Thế Vận Pierre de Coubertin vì tinh thần thể thao và
lòng vị tha quên mình của anh. Anh nói về
hành động của mình: “Điều tôi đã làm, ai cũng có thể làm được và phải làm mà
thôi. Nó chẳng khác gì khi lái xe thấy có một người đang lâm nạn trong một chiếc
xe bên vệ đường cần được giúp đỡ”.
Hành động vị
tha của Lemieux là một trong những cử chỉ tuyệt vời nhứt trong Thế Vận Hội
Seoul 1988 và là một trong những hình ảnh đẹp nhứt của Thế Vận Hội.
Tôi đã theo
dõi nghi thức khai mạc Thế Vận Hội Rio de Janeiro. Nghe nói kể từ năm 1992 đến
nay, đây là nghi thức khai mạc thế vận hội ít được theo dõi nhứt trên màn ảnh
truyền hình hay trên mạng. Có lẽ vì bóng ma của dịch bệnh Zika, vì tiện nghi
dành cho các lực sĩ không được đầy đủ hay vì tình trạng bất ổn và thiếu an ninh
tại Ba Tây chăng. Riêng tôi lúc nào cũng “mê” Ba Tây. Không phải vì túc cầu,
không phải vì lễ hội Carnival, không phải vì điệu nhạc Lambada, mà vì dòng sông
Amazone. Không hiểu tại sao cứ nói đến Ba Tây là tôi mơ ngay tức khắc đến dòng
sông này. Nếu như ở cuối đời được làm một chuyến du lịch để đời, thì chắc chắn
điểm đến của tôi phải là dòng sông Amazone. Buổi lễ khai mạc Thế Vận Hội Rio de
Janeiro tối thứ Sáu tuần qua đã thực sự đưa tôi đến đó. Ở đó, không chỉ có những
dòng nước uốn khúc thơ mộng, không chỉ có những khu rừng già xanh tươi quanh
năm suốt tháng, mà là sự hiện diện của những bộ lạc bán khai với bản sắc văn
hóa đặc thù và nguyên sơ luôn được bảo tồn.
So với các
nghi thức khai mạc Thế Vận Hội trước, nếu xét về kỹ thuật và sự “hoành tráng”,
Rio de Janeiro thua xa. Nhưng với riêng tôi, đây là nghi thức khai mạc đẹp và
có ý nghĩa nhứt. Đẹp và có ý nghĩa bởi vì với hình ảnh của một thiếu niên cầm
trên tay một cây non đi theo mỗi phái đoàn và chiếc xe đạp chở đầy cây xanh và
hoa, buổi lễ khai mạc Thế Vận Hội Rio de Janeiro đã gởi đi một thông điệp rõ
ràng: tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên cũng như bản sắc của từng dân tộc là chìa
khóa của hòa bình.
Thật vậy, buổi
lễ khai mạc Thế Vận Hội Rio de Janeiro đã cho tôi thấy được sự hài hòa của dân
tộc Ba Tây. Từng lớp người đã làm nên dân tộc này. Đầu tiên là những người thổ
dân, kế đó là người Bồ Đào Nha, rồi đến lớp người nô lệ từ Phi Châu và cuối cùng
là người Hồi giáo từ Trung Đông và người Nhật Bản...Đủ thứ màu da chen lẫn
và pha trộn với nhau, nhưng chưa hề có chuyện kỳ thị chủng tộc ở nước này. Ba
Tây chưa phải là một quốc gia phát triển. Tham nhũng và nghèo đói vẫn còn dẫn đến bất ổn và bạo động. Nhưng bạo
động vì kỳ thị hay hận thù chủng tộc là điều ít nghe nói đến ở Ba Tây. Ít ra Ba
Tây cho tôi thấy được hình ảnh đẹp của sự hài hòa giữa các màu da, chủng tộc và
văn hóa.
Tôi mới xem
cuốn phim có tựa đề “ Roots” (cội nguồn) được chiếu thành 4 tập trên Đài SBS.
Tôi đã đọc nhiều cuốn sách và xem nhiều cuốn phim nói về thảm kịch của người nô
lệ Phi Châu tại Hoa Kỳ. Nhưng có lẽ chưa có tài liệu nào khiến tôi phải ray rứt
cho bằng cuốn phim “Roots” này. Xoáy trong đầu tôi nhiều ngày là câu hỏi: tại
sao những người da trắng tại Hoa Kỳ vào thế kỷ 18 đã có thể đối xử tàn bạo và vô nhân đạo đối với người Phi Châu
như thế? Quả thật, tôi không thể hiểu được tại sao những người da trắng thời
đó, những người mỗi ngày chúa nhựt đến nhà thờ cầu nguyện, hát thánh ca, trên
tay cầm quyển Kinh Thánh...lại xem người đồng loại của mình như súc vật để có
thể hành hạ, hãm hiếp, sát hại và mang ra mua bán đổi chác.
Ngày nay,
khi theo dõi cuộc vận động tranh cử tổng thống tại Hoa Kỳ, tôi cũng không hiểu
được tại sao sự thù hận và óc kỳ thị chủng tộc vẫn còn âm ỉ trong lòng nhiều
người và oái oăm thay lại được tung hê trong một ứng cử viên như ông Donald
Trump. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã lên tiếng bày tỏ lo ngại về sự ngông
cuồng của ứng cử viên Trump. Ngay trong Đảng Cộng hòa, theo tin của báo The New
York Times, cũng có đến 50 viên chức hàng
đầu trong lãnh vực an ninh quốc gia đã ký tên vào một lá thư để tuyên bố thẳng
thừng rằng họ không ủng hộ ông Trump. Theo các viên chức này, ông Trump “sẽ là
một tổng thống liều lĩnh nhứt trong lịch sử Hoa Kỳ”. Theo lá thư, ông Trump đã
không ngừng chứng tỏ rằng ông ít hiểu biết về quyền lợi sinh tử của Hoa Kỳ và
những vấn đề ngoại giao phức tạp. Trầm trọng hơn, những người ký tên vào lá thư
còn cho rằng ông Trump là người không có khả năng hay không muốn phân biệt chân
giả, phải trái và nhứt là luôn tỏ ra thiếu tự chủ.
Có lẽ hai chữ
“cà khịa” mà ai đó đã dùng để mô tả tư cách của ông Trump là đúng nhứt.
Còn nếu bảo ông là một Chí Phèo thì cũng
chẳng quá đáng. Ai ông cũng chê. Ai ông cũng chửi. Ngay cả một trẻ thơ vô tội,
ông cũng không tha. Một số chuyên gia
tâm lý đã gọi ông là một thứ “Narcisse” chỉ biết ngắm chiếc bóng của mình trong
nước và xem trời bằng vung. Nói cho cùng, như tổng thống Barack Obama đã nhận
xét, ông Trump không có đủ tư cách để làm một tổng thống của Hoa Kỳ.
Hai chữ “tư cách” thường gợi lên trong tôi đức độ.Trong
sinh hoạt chính trị, tôi thường bỏ phiếu theo trái tim. Tôi chọn những nhà lãnh
đạo có trái tim, biết tôn trọng sự thật, biết thương người. Trong giao tế hàng
ngày cũng thế, gặp bất cứ ai có tấm lòng, nghĩa là lương thiện, tử tế, vị
tha...tôi bị thu hút ngay. Tôi cho rằng đức độ là yếu tố nền tảng trong sự đánh
giá về người khác. Tôi hiểu được tại sao rất nhiều người Mỹ đã không “thích” cả
ông Trump lẫn bà Clinton: họ đã không nhận ra một trong những đức tính nền tảng
trong nhân cách là sự lương thiện nơi hai ứng cử viên này!
Sống lương
thiện không phải là điều dễ dàng. Nó đòi hỏi phải chiến đấu liên lỉ và có khi
phải hy sinh cả mạng sống. Tôi nghĩ đến nhà văn Dương Nghiễm Mậu vừa mới qua đời
tại Sài Gòn hôm 2 tháng 8 vừa qua. Trước năm 1975, ông là một trong những nhà
văn Việt Nam được nhiều người biết đến. Nhưng kể từ năm 1975, ít ai biết đến
ông. Các tác phẩm của ông bị rơi vào quên lãng. Sau khi ra tù cộng sản, phần lớn
các nhà văn hóa đều bỏ nước ra đi tìm tự do. Riêng ông, chọn ở lại. Và trong một
chế độ mà chỉ có giới văn nô bẻ cong ngòi bút mới có thể phè phỡn tồn tại, ông
đã chọn sự thinh lặng. Trước năm 1975, tôi có đọc vài cuốn sách của ông. Đọc để
giải trí hơn là học hỏi. Nhưng chỉ mới đây, qua bài tưởng niệm của nhà văn Viên
Linh ở Mỹ, tôi “biết” ông nhiều hơn và cảm phục đức độ của ông nhiều hơn. Đức độ
của ông đã được bày tỏ qua một lá thư ngắn viết cho nhà văn Viên Linh năm 1982,
trong đó ông tóm tắt cuộc sống của ông dưới chế độ cộng sản như sau: “Ta lo làm
thợ cho con ăn cơm sống lương thiện”. Có lẽ không đến nỗi bị đày đọa và khốn khổ
như thi sĩ Nguyễn Hữu Loan ngoài Bắc, nhưng nhà văn Dương Nghiễm Mầu hẳn cũng
đã trải qua những năm tháng “vất vả”, tả tơi trong chế độ cộng sản. Nhưng họ giống
nhau ở chỗ luôn biết giữ tấm lòng lương thiện và dạy con biết sống lương thiện.
Tôi thực sự học được ở nhân cách của những con người như thế nhiều hơn qua các
tác phẩm của họ.
Viết về nhà
văn Dương Nghiễm Mậu, tác giả Lâm Bình Duy Nhiên đã đưa ra một nhận xét rất
chính xác về đức độ của ông: “Ở lại trong nước, viết không được. Phải bẻ cong
ngòi bút, phải hèn mới có thể sống. Nhưng Dương Nghiễm Mậu chọn lương tâm” (x.
Đàn chim việt online 6/8/2016).
Lương tâm là
kho tàng quý giá nhứt trong con người. Chọn lương tâm con người có thể mất tất
cả, kể cả mạng sống, nhưng họ không đánh mất chính mình. Suy nghĩ về lương tâm,
tôi thường liên tưởng đến một giai thoại về danh họa Pablo Picasso. Chuyện kể rằng
một hôm có một người giàu có tìm đến một họa sĩ “quèn” để nhờ vẽ cho ông một bức
chân dung. Hai bên đã đồng ý với một cái giá phải chăng. Nhưng đến ngày nhận
hàng, người nhà giàu lại muốn bắt chẹt người họa sĩ. Thay vì trả đúng số tiền
như hai bên đã đồng ý, ông chỉ đưa cho người họa sĩ một số tiền còm. Biết mình
bị lừa, người họa sĩ liền giữ lại bức tranh và nói một cách cương quyết: Tôi
không chịu bán bức tranh nữa! Hôm nay ông đã nuốt lời và bất tín với tôi, thì
trong tương lai chắc chắn ông sẽ trả giá gấp 20 lấn!
Trời không
phụ lòng người. Mười mấy năm sau, người họa sĩ đã dành được một chỗ đứng khá
quan trọng trong giới hội họa. Một hôm có người đến mách cho người nhà giàu biết:
“Trong một cuộc triển lãm tranh của một họa sĩ nổi tiếng, tôi thấy có một bức
chân dung y hệt như ông. Bức tranh được đề giá rất cao và có một tiêu đề ngộ
nghĩnh là “Bandito” (tên đạo tặc)”.
Người nhà
giàu đã âm thầm đến gặp người họa sĩ và mua lại bức tranh với giá gấp 20 lần. Về
sau, ai cũng biết rằng tên của người họa sĩ vẽ bức chân dung của tên “đạo tặc”
chính là Paolo Picasso.
Người kể lại
giai thoại trên đây kết luận: không ai có thể đánh bại và làm nhục ta ngoại trừ
chính ta.
Theo dõi các
cuộc thi đấu của Thế Vận Hội, nghĩ đến chuyện Chính phủ Nga khuyến khích các lực
sĩ của mình sử dụng thuốc kích thích để bằng mọi giá đoạt huy chương trong các
cuộc thi đấu, tôi cũng có một ý nghĩ tương tự: chỉ có một cuộc thi đấu đáng để
tranh tài, đó là cuộc thi đấu của lương tâm; lương tâm chiến thắng, con người
được tất cả, lương tâm chiến bại, con người mất tất cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét