Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2016

Thế giới vẫn mãi là một nơi đáng sống


Chu Thập
29.7.16

Tôi vẫn mơ ước trước khi “về cội” được làm một chuyến viễn du đến một số nước mà mình chỉ thăm thú một cách hàm thụ qua sách vở hay truyền hình. Nhưng tình hình thế giới hiện nay khiến tôi chùn bước. Nhìn đâu cũng thấy sợ. Tôi đã bắt đầu cảm thấy dị ứng với đám đông. Cứ thấy có đông người là tôi sợ. Không riêng gì ở Trung Đông hay các nước “Hồi Giáo” là những nơi mà các cuộc khủng bố giết người hàng loạt xảy ra như cơm bữa, mà ngay tại các nước Tây Phương cảnh bắn giết cũng đã trở thành “chuyện thường ngày ở huyện”.
Nhìn vào Hoa Kỳ và nghe những lời “tuyên sấm” của các chính trị gia, tôi thấy bức tranh lại càng ảm đạm u ám hơn. Cứ như tận thế sắp xảy ra. Tôi không phải là công dân Mỹ. Có nhiều lý do riêng tư khiến tôi không muốn vào thiên đàng Mỹ. Nhưng bởi Hoa Kỳ đang là siêu cường số một thế giới và nhứt cử nhứt động của nước này đều có ảnh hưởng đến tình hình thế giới cho nên tôi thấy chuyện của nước Mỹ cũng là chuyện của mình. Hoa Kỳ chỉ cần ho nhẹ hay cảm sốt xoàng thôi thế giới cũng đã ớn lạnh xương sống rồi chớ đừng nói tới chuyện nước này sắp dẫy chết đến nơi. Vậy mà nghe bài diễn văn dài hơn 4000 từ mà ông Donald Trump đã đọc tối thứ Năm 21 tháng 7 vừa qua,  khi được Đảng Cộng Hòa chính thức đề cử ra tranh chức tổng thống Mỹ vào tháng 11 tới đây, tôi thấy muốn “rụng rời tay chân”. Hoa Kỳ sắp sụp đổ đến nơi và chỉ có ông mới là vị cứu tinh duy nhứt có thể cứu vãn tình hình.
Bức tranh mà ông Trump đã vẽ ra về nước Mỹ thật là u ám. Và dĩ nhiên, vì ảnh hưởng rộng lớn của nước Mỹ, bóng đen của nước này cũng bao phủ lên toàn thế giới.
Trong cố gắng đi tìm sự thanh thản và bình an cho tâm hồn, tôi luôn tập nhìn vào các biến cố trên thế giới với cái nhìn lạc quan. Lượng thông tin quá tải được dội vào tai mắt tôi mỗi ngày quả thật chỉ toàn là tin xấu. Thế giới như  trở thành một nơi ngày càng nguy hiểm. Nhưng có thật như thế không?
Trong cuốn sách có tựa đề “The Better Angels of Our Nature: Why violence has declined” (Những thiên thần tốt hơn của bản chất chúng ta: Tại sao bạo động đã giảm sút) được xuất bản năm 2011, tác giả Steven Pinker đã đưa tôi vào một thế giới tốt đẹp hơn nhiều. Trước hết, về tỷ lệ sát nhân trên toàn thế giới, tác giả ghi nhận rằng số người chết không do chiến tranh đã giảm sút rất nhiều. Bức tranh của thế giới cũng sáng sủa hơn trước kia nhiều bởi vì nạn bạo hành đối với phụ nữ ngày càng được phơi bày, ý thức của dân chúng ngày càng cao do đó tệ nạn này cũng ngày càng được đề phòng và giảm sút đáng kể. Trong khi ngọn đèn của truyền thông lúc nào cũng rọi vào những vụ bạo hành nơi giới nghệ sĩ, thể thao...khiến cho người ta có cảm tưởng như bạo hành đối với phụ nữ ngày càng gia tăng, thì tại Mỹ chẳng hạn, những con số thống kê chính thức của Bộ Tư pháp lại cho thấy tỷ lệ bạo hành đối với phụ nữ đã giảm sút rất nhiều từ vài thập niên vừa qua.
Riêng về bạo hành đối với trẻ con, truyền thông đã tỏ ra rất tinh nhậy về những vụ bắn giết trong các trường học, những chuyện bắt cóc, bắt nạt và hãm hiếp...như thể trẻ em ngày nay phải sống trong một thế giới ngày càng nguy hiểm. Trong thực tế, các số liệu lại chứng tỏ rằng trẻ con ngày nay được an toàn hơn bao giờ hết.
Nhưng quan trọng hơn cả, nói đến tình hình thế giới là phải nói đến chiến tranh. Tác giả Pinker khẳng định rằng trong một diễn biến lịch sử chưa từng có, con số các cuộc chiến tranh giữa các nước đã giảm đi rất nhiều kể từ năm 1945 và những cuộc đụng độ giữa các siêu cường hay các nước phát triển đã hầu như trở thành lịch sử. Trong một bài báo được đăng trên tạp chí The Wall Journal Street, tác giả đã khẳng định rằng bạo động đã sút giảm đi nhiều và ngày nay chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên an bình nhứt (https://www.psychologytoday.com/blog/excellent-beauty/201607/is-the-world-more-dangerous-now-ever).
Nhìn lại hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong thời gian gần đây, tôi cũng nhận thấy bức tranh của thế giới vẫn còn sáng sủa. Chương trình Thực phẩm Thế giới WFD đã giúp cứu đói hàng triệu triệu người. Trong năm 2015, chương trình này đã cung cấp thực phẩm cho hơn 6 triệu người tỵ nạn. Đáng kể nhứt là hoạt động của Tổ chức Y tế Thế giới WHO. Nhờ chương trình này, tỷ lệ của trẻ em dưới 5 tuổi  bị thiếu ký tại các nước đang phát triển đã từ 28 giảm xuống còn 17 phần trăm. Số trẻ em chết dưới 5 tuổi cũng đã giảm đi rất nhiều. Con số những người chết vì nhiễm vi rút HIV trên toàn thế giới đã giảm đến 43 phần trăm. Riêng Quỹ Nhi Đồng Quốc Tế UNICEF cũng đã giúp nâng cao sức khỏe của hàng triệu trẻ em tại các nước đang phát triển. Nói gì đến Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc UNHCR và Quân đội Gìn giữ Hòa bình của Liên Hiệp Quốc: Liên Hiệp Quốc đã không giải quyết được mọi vấn đề của thế giới, nhưng ít ra cũng giúp xoa dịu các vết thương đau và mang lại hy vọng hòa bình cho nhiều nơi (x. Who can run the U.N? Tạp chí Time 1/8/2016).
Tôi tin tác giả Pinker hơn các nhà “tiên tri” của thời đại chuyên vẽ ra một thế giới u ám để hù dọa và thổi bùng lên ngọn lửa thù hận trong lòng người.  Như tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã nhận định trong  bài “ văn hóa thù hận” (x.http://www.voatiengviet.com/a/van-hoa-thu-han), sự thù ghét người di dân, cách riêng người Hồi giáo, ngày càng lan rộng. Tại Hoa Kỳ, ứng cử viên Donald Trump đã nhiều lần đưa ra những tuyên bố sặc mùi phân biệt chủng tộc và chống người di dân. Tại Vương quốc Anh, sự kiện có đến 52 phần trăm dân chúng bỏ phiếu chọn tách ra khỏi khối Liên Hiệp Âu Châu cũng nói lên phần nào sự thù ghét đối với người di dân. Riêng tại Úc Đại Lợi, sự trở lại Quốc Hội của bà Pauline Hanson, lãnh tụ của Đảng One Nation chống Hồi giáo và di dân, cách riêng người Á Châu, quả là một điều đáng lo ngại.
Nếu thế giới này có trở nên u ám, nguy hiểm và khó sống hơn hẳn không phải vì thiếu an toàn cho bằng sự thù hận đang đốt cháy tâm hồn con người. Nhưng tôi lạc quan bởi vì bên cạnh những lãnh tụ chuyên hù dọa và khai thác sự thù hận vẫn còn có những tiếng nói của lương tâm, lẽ phải và tình người. Tôi đặc biệt chú ý đến thái độ của người con trai của ông Curtis Cheng, kế toán viên lâu năm trong ngành cảnh sát đã bị một thiếu niên Hồi Giáo cuồng tín sát hại hồi đầu tháng 10 năm ngoái. Trong một lần xuất hiện trong chương trình Q&A của Đài ABC mới đây, bà Pauline Hanson đã nhắc đến cái chết của ông Cheng và yêu cầu chính phủ phải cho thiết lập một Ủy ban Hoàng gia để điều tra về Hồi Giáo, vì cho rằng Hồi Giáo  là một ý thức hệ chính trị chớ không phải là một niềm tin tôn giáo.
Mới đây, trong một lá thư ngỏ gởi cho bà Pauline Hanson, người con trai cả của ông Cheng là Alpha Cheng đã yêu cầu bà đừng liên kết cái chết của cha anh cũng như cuộc khủng bố tại tiệm cà phê Lindt cách đây 2 năm với cộng đồng Hồi Giáo. Alfa Cheng viết: “Cha tôi đã bị một thiếu niên 15 tuổi sát hại. Tôi không thể chối bỏ sự kiện các hung thủ đã tự xưng là người của “Quốc gia Hồi giáo”. Tuy nhiên, không thể suy luận từ những sự kiện này để bảo rằng Hồi Giáo là những người đáng sợ”. Alfa cho biết các mối quan hệ thân thiết của anh với các bạn và sinh viên Hồi Giáo đã không hề thay đổi sau cái chết của cha anh. Anh khẳng định: “Họ (những người Hồi Giáo) cũng có những hy vọng và ước mơ như mọi người Úc là được thành công trong cuộc sống và hưởng được mọi thứ tự do như chúng ta”.
Đề cập đến đề nghị của bà Pauline Hanson không nhận người di dân Hồi Giáo vào Úc, Alfa kể lại: “Tôi còn nhớ khi mới đến Úc, tôi đã là nạn nhân của những thái độ thù hận và sợ hãi mà Đảng One Nation đã khơi dậy. Tôi còn nhớ đã từng cho biết sẽ bị mang trả lại nơi tôi đã đến vì tôi là một người Á Châu.”
Alfa kêu gọi: “Chúng ta cần phải tìm cách hàn gắn và xây dựng, chớ không phải chia rẽ và loại trừ. Cha tôi là một người hiền hậu và hiếu hòa. Đừng sử dụng tên của ông để gieo rắc sợ hãi và loại trừ”.
Thù hận thường làm cho con người trở nên bi quan và do đó dễ có cái nhìn nghi kỵ, sợ hãi đối với người khác. Đó là thế giới đặc trưng của người cộng sản. Người cộng sản nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Dù có ăn cướp và tích lũy được tiền rừng bạc bể đi nữa, sống trong một thế giới đầy hận thù và nghi kỵ như thế, con người khó có được sự an lạc và hạnh phúc.
Thế giới chưa phải là một nơi hoàn hảo. Nhưng tôi tin rằng thế giới này vẫn là một nơi đáng sống và là nơi tôi vẫn tìm ra được ý nghĩa cho cuộc sống tại thế này. Tất cả đều tùy ở cái tâm của tôi. Nếu tầm hồn tôi lúc nào cũng cưu mang hận thù, ghen ghét, đố kỵ và sợ hãi tôi không thể nào có được niềm an bình và tìm ra được lẽ sống đích thực.
Mấy ngày vừa qua, đối lại những cảnh bắn giết xảy ra liên tục tại nhiều nơi trên thế giới và nhứt là bức tranh ảm đạm của nước Mỹ và thế giới được ứng cử viên Donald Trump vẽ ra để hù dọa và gieo rắc sợ hãi và thù hận, tôi nghiền ngẫm một câu chuyện được một số bạn bè chia sẻ trên “meo đàn”. Chuyện kể về một lão bà đã 92 tuổi được đưa vào một viện dưỡng lão. Người chồng đã chung sống với bà 70 năm vừa mới qua đời. Sau nhiều giờ kiên nhẫn chờ đợi trong phòng khách của viện dưỡng lão, bà cụ cười một cách mãn nguyện khi được báo phòng của bà đã sẵn sàng.
Khi nhân viên của viện dưỡng lão mô tả vài nét về căn phòng nhỏ bé nơi bà sẽ ở, cụ bà hớn hở thốt lên “tôi thích lắm” như một bé gái 8 tuổi vừa tiếp nhận một con chó nhỏ. Người có trách nhiệm dìu cụ bà về phòng thắc mắc: “Nhưng thưa cụ, cụ đã thấy phòng của mình đâu mà thích?” Cụ nhanh nhẩu giải thích: “Điều đó không quan trọng. Hạnh phúc là một điều bạn quyết định trước. Tôi có thích phòng của tôi hay không không tùy thuộc vào các nội thất được bày biện trong phòng...mà chính là cách chúng được sắp đặt trong tâm trí tôi. Tôi đã quyết định thích căn phòng của tôi. Đó là một quyết định tôi làm mỗi buổi sáng khi thức dậy.Tôi có một chọn lựa: hoặc là tôi nằm lì trên giường suốt ngày để gậm nhấm những khó khăn do một số cơ phận trong thân thể tôi tạo ra vì chúng  không còn hoạt động nữa hoặc là ra khỏi giường và tạ ơn vì vẫn còn một số cơ phận đang hoạt động. Mỗi ngày là một quà tặng và bao lâu mắt tôi còn mở thì tôi sẽ tập trung vào ngày mới và những kỷ niệm đẹp mà tôi đã tích lũy cho giây phút này đây. Tuổi già cũng giống như một sổ băng: bạn rút ra những gì mà bạn đã gởi vào.”
Để sống hạnh phúc, cụ bà đưa ra một số lời khuyên như: đừng quá lo lắng, hãy sống đơn giản, hãy trao ban nhiều hơn, hãy chờ đợi ít hơn. Nhưng được đặt lên hàng đầu là lời khuyên: hãy loại bỏ khỏi tâm hồn mọi hận thù.
Tôi tin đó là liều thuốc an thần đích thực có thể mang lại cho tôi thanh thản và bình an.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét