Chu Thập
27.11.12
27.11.12
Thời trung học, thỉnh
thoảng tôi nghe một số giáo sư kêu gọi đề phòng điều mà các vị gọi là “phán
đoán sai lầm” (faux jugement). Học sinh
nào bị dán cho nhãn hiệu “phán đoán sai lầm” coi như hết thuốc chữa. Đại khái,
theo các vị này, người có phán đoán sai lầm là người có suy nghĩ, nói năng và
hành động ngược lại với lẽ thường và những chuẩn mực thông thường. Thời đó, “phán
đoán sai lầm” được tôi hiểu một cách nôm na là “chẳng giống ai”. Hai chữ “sái
trí” của người Miền Nam có lẽ dễ hiểu hơn cả. Trong lớp học nói riêng và ngoài
xã hội nói chung, ở đâu tôi cũng thấy có hạng người có phán đoán sai lầm.
Nhưng càng tiến tới
trong tuổi đời, tôi lại càng nghiệm ra rằng có khi do sai lầm tập thể và thấy
người khác không suy nghĩ và hành động giống mình mà người ta lại gán cho họ
cái nhãn hiệu “phán đoán sai lầm”. Vào Thế kỷ 17, khi nhà bác học người Ý Galileo
Galilei tuyên bố “trái đất quay xung quanh mặt trời”, đảo ngược cái “lẽ thường”
và nhất là “lời mạc khải” trong Kinh Thánh, chắc chắn ông chỉ có thể bị đa số
các nhà thông thái của thời đại xem như một người có phán đoán sai lầm mà thôi.
Chả thế mà ông đã bị một tòa án của Giáo hội kết án, giam giữ và buộc phải sám
hối vì cách suy nghĩ sai trái của mình. Một mình một cõi, “chẳng giống ai”, nhà
bác học lừng danh này vẫn một mực giữ vững lập trường: “Dù sao đi nữa, nó (trái
đất) vẫn quay...”
Bao lâu còn có những
sai lầm tập thể thì bấy lâu vẫn còn có những người bị kết án có “phán đoán sai
lầm”. Và sở dĩ có những sai lầm hay ảo tưởng tập thể là bởi vì sự thật của cuộc
đời có khi không đơn giản như hai với hai là bốn hay trắng ra trắng đen ra đen.
Kinh nghiệm hàng ngày luôn bảo tôi phải cẩn trọng khi phán đoán để tránh kết án
người khác một cách vội vã, bởi vì sự thật thì phức tạp mà cái óc của tôi thì vừa
chật hẹp lại vừa nông cạn và đầy thành kiến.
Đa số những câu
chuyện Thiền đều mách bảo tôi điều đó. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghiền ngẫm giai
thoại đã trở thành kinh điển về hai nhà sư xuống núi: ở một đoạn đường, sau một
cơn mưa lũ, nước lên cao, có một phụ nữ không thể lội qua dòng suối. Thấy thế,
một trong hai vị sư liền cõng chị qua dòng suối. Về đến nhà, vị sư khác đã
không tiếc lời trách móc người anh em của mình vì đã “phá giới”. Vị sư đã giúp
đỡ người phụ nữ liền giải thích: “Tôi đã bỏ chị ta lại bên bờ suối. Huynh còn
mang chị mãi về nhà làm gì?”
Câu chuyện nêu lên
một câu hỏi nghiêm chỉnh mà tôi thường gặp trong những tình huống “éo le”: ai mới
là người “phá giới”, ai mới là người hành động đúng? Trả lời cho một câu hỏi
như thế có khi không phải là dễ dàng. Tôi liên tưởng đến chuyện vừa xảy ra ở Việt
nam, dĩ nhiên cũng liên quan đến cửa Phật. Đó là chuyện hai nhà sư nào đó,
trong một buổi văn nghệ có bán đấu giá để gây quỹ từ thiện, đã “đấu” cho đến
cùng một chai rượu với giá trên 50 triệu đồng Việt nam để được “hôn” ca sĩ nổi
tiếng trong nước là Đàm Vĩnh Hưng. Câu chuyện vẫn tiếp tục được dư luận trong
nước bàn tán xôn xao. Đa số đều lên án hai nhà sư này vì đã không hành động
đúng với tư cách của những nhà lãnh đạo tinh thần. Tôi không phải là một phật tử.
Cử chỉ của hai nhà sư này có phù hợp với giáo lý nhà Phật không, quả tình tôi
không dám nói.
Nhân chuyện này,
tôi lại nghĩ đến một nhân vật nổi tiếng khác là Thanh Hải Vô Thượng Sư. Do tò
mò, tôi có xem và nghe trên băng hình một vài buổi thuyết pháp của bà. Không
bàn đến giáo lý cao siêu của bà, chỉ riêng tài hùng biện, sự uyên bác và sự thu
hút lạ lùng của bà cũng đủ để tôi phục lăn. Tôi không ngạc nhiên tại sao bà đã
có thể làm dấy lên được một phong trào rộng lớn quy tụ không những người Việt,
mà còn người ngoại quốc tại rất nhiều nơi trên thế giới. Tôi lại càng phục người
đàn bà này khi đầu thập niên 90, bà đến thăm Phi luật tân. Bà không những vào
trại tỵ nạn thăm và tặng quà cho người đồng hương Việt nam, mà còn trao một món
quà thật lớn cho các nạn nhân của núi lửa Pinatubo. Hình ảnh của một ni sư, đầu
cạo nhẵn, mặc chiếc áo cà sa đi đến đâu dân chúng chạy theo đến đó, chỉ có thể
gợi lên trong tôi sự cảm phục mà thôi. Vậy mà chỉ một thời gian sau đó, không
những tôi nghe nói mà còn thấy tận mắt hình ảnh của một Thanh Hải Vô Thượng Sư
hoàn toàn thay da đổi thịt theo đúng nghĩa: bà không những để tóc mọc dài ra mà
còn nhuộm mầu theo đúng thời trang; bà không những tô son trét phấn, ăn mặc thời
trang mà còn trở thành một nhà sản xuất thời trang nữa. Nghe bà giải thích đâu
đó rằng đã đạt đến mức “giác ngộ” mà chẳng có ai có thể vượt qua được (vô thượng
sư) như bà thì mới có thể thay hình đổi dạng như bà. Tôi cũng có nghe bà giải
thích rằng tu đắc đạo như bà thì tất cả những thứ bên ngoài ấy chẳng có ảnh hưởng
gì đến nội tâm của bà. Quả đúng như câu ngạn ngữ “chiếc áo không làm nên thày
tu”. Một lần nữa, tôi lại chẳng dám đưa ra một phán đoán nào về chuyện tu hành “độc
đáo” này của Thanh Hải Vô Thượng Sư.
Có lúc tôi muốn bắt
chước thái độ “tỉnh bơ” của vị thiền sư nọ. Một cô gái nọ lỡ có mang với một
người đàn ông. Cô tri hô với mọi người trong làng rằng nhà sư chính là tác giả
của bào thai. Mọi người kéo đến cửa chùa để bắt ông phải nhận tội. Không chút
giao động, không một lời trần tình, ông chỉ thốt lên “Thế ư?” và sau đó, đón nhận
đứa bé mang về chùa để chăm sóc như con mình. Nhưng không đầy hai năm sau, cô
gái hối hận về hành vi vu khống của mình và cho mọi người biết người cha đích
thực của đứa bé. Thế là mọi người lại kéo nhau đến cửa chùa để xin lỗi vị chân
tu. Lần này cũng vậy, nhà sư cũng không mất nhiều lời. Ông chỉ thốt lên “Thế
ư?” rồi trao đứa bé lại cho mẹ nó.
Tập được một thái
độ “vô chấp” và bình thản như thế quả không phải là chuyện dễ, nhứt là trong thời
đại “đa sự” như thời đại thông tin toàn cầu này. Chuyện gì con người thời đại
cũng “săn”, cũng “hóng” và bàn tán. Như chuyện của ông David Petraeus, giám đốc
cơ quan tình báo CIA của Hoa kỳ và bà Paula Broadwell, người viết tiểu sử của
ông chẳng hạn. Cho tới nay, các cơ quan truyền thông vẫn chưa cạn hết giấy mực
để khai thác và đâu đâu người ta cũng chưa cạn hết nước miếng để mà bàn tán và
dĩ nhiên lên án.
Riêng tôi vẫn tiếp
tục ngưỡng mộ và kính phục ông tướng tài ba, kỷ luật và có gương mặt khắc khổ
này. Ngoại tình là chuyện xưa như trái đất. Lại nữa, “khôn ba năm dại một giờ”
là qui luật không có luật trừ cho bất kỳ ai. Tôi cảm thông với ông. Tôi lại
càng cảm phục ông hơn, bởi vì liền sau khi sự việc được công khai hóa, ông đệ
đơn từ chức và nhìn nhận: “Sau 37 năm sống đời vợ chồng, tôi đã làm một phán
đoán sai lầm khi ngoại tình”. Có đâu lại
vòng vo tam quốc để chối già chối non như ông tổng thống đào hoa Bill Clinton.
Với ông luật sư sử dụng Anh ngữ nhuần nhuyễn như nhồi banh này, chuyện gì cũng
chối được. Chẳng hạn, ông thú nhận lúc còn trẻ có “chơi” ma túy, nhưng lại bảo rằng ông không có “hít”
(inhale). Còn chuyện quan hệ tình dục với cô tập sự viên Monica Lewinski thì
ông lại mở tự điển ra để định nghĩa về hành động tính dục và chối phăng rằng
ông không hề có quan hệ tình dục với cô.
Tôi phục và cảm
thông với ông tướng David Petraeus. Nơi ông, tôi lại thấy ứng nghiệm câu nói
quen thuộc của người Việt nam: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Một trong những
lời đáng ghi nhớ nhứt của Chúa Giêsu có lẽ là câu nói Ngài ngỏ với đám đông người
Do thái đang hậm hực muốn ném đá một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình: “Ai trong các người là người vô tội hãy ném đá chị ta trước tiên”. Có thấy
mình yếu đuối, có biết mình đã hơn một lần vấp ngã thì “cảm thông” vẫn là thái
độ nhân bản và hợp lý nhứt của con người.
Ngoài ra, tôi lại
càng được thúc đẩy để sống cảm thông với người khác hơn bởi vì phán đoán của
tôi về người khác thường giới hạn và chủ quan, bởi vì tôi dễ có khuynh hướng
nhìn người xuyên qua những lăng kính riêng của tôi. Ngay cả tòa án, một nơi gồm
những nhà chuyên môn mà chúng ta gọi là “thẩm phán”, cũng không tránh khỏi những
sai lầm và có khi là “những sai lầm chết người” là khác.
Phụ trương “Good
Weekend” (GW) của báo The Sydney Morning Herald, trong số ra cuối tuần 17-18
tháng 11 vừa qua có ghi lại câu chuyện của một người Thụy Điển bị kết án về tội
giết người hàng loạt, nhưng thực tế không hề phạm. Người đàn ông này tên là
Sture Bergwall, hiện đang bị giam giữ trong một nhà thương tâm thần dành cho những
tội phạm tâm thần gần Thủ đô Stochkholm. Cho đến gần đây, Bergwall vẫn là kẻ giết
người hàng loạt khét tiếng nhứt tại Thụy Điển. Ông đã tự thú trên 30 vụ giết
người và bị kết án vì 8 vụ. Ông tự xưng là “Thomas Quick” (Thomas, người lanh
tay). Báo chí Thụy Điển gọi ông là tên “ăn thịt người”.
Nhưng câu chuyện của
Sture Bergwall đã bước vào một bước ngoặt lý thú kể từ năm 2008, khi ông Hannes
Rastam, một nhà làm phim tài liệu nổi tiếng của Thuỵ Điển bắt đầu chú ý đến trường
hợp của ông. Nhà làm phim này đã đến thăm người tù và được phép đọc lại khoảng
50 ngàn trang tài liệu về các phiên xử, những buổi tâm lý trị liệu và nhứt là
các cuộc hỏi cung của cảnh sát. Ông Rastam đã tổng hợp tất cả những tài liệu
nói trên trong cuốn sách có tựa đề “Thomas Quick: The Making of a serial
killer” (Thomas Quick: sự hình thành của một tên giết người hàng loạt). Cuốn
sách khẳng định một điều: không có bất cứ bằng chứng nào để buộc tội ông Sture
Bergwall; trong tiến trình buộc tội, không hề có thử nghiệm DNA, không có vũ
khí giết người, không có nhân chứng mà chỉ có những lời tự thú của đương sự mà
thôi. Đa số các lời tự thú đều được đưa ra do ảnh hưởng của thuốc gây mê. Sture
Bergwall đã nói với nhà làm phim rằng tất cả những lời tự thú đều hoàn toàn do
ông “phịa” ra.
Cuộc đời của Sture
Bergwall là một câu chuyện đáng thương. Cha mẹ ông là những tín hữu Tin lành rất
mộ đạo. Lúc nhỏ, ông có tham vọng trở thành một diễn viên hay văn sĩ. Nhưng năm
14 tuổi, ông khám phá ra mình là người đồng tính. Do mặc cảm, ông tìm cách che
dấu khuynh hướng này. Năm 19 tuổi, ông bị tố cáo có lạm dụng tình dục một số
thiếu niên. Ông cũng có lần toan chém một người bạn tình. Rơi vào nghiện ngập, ông
hóa trang thành ông già Noel để ăn cướp một ngân hàng địa phương. Bị giam giữ,
ông được đưa đi chữa trị về tâm lý. Cũng có lúc ông muốn trở thành một bác sĩ,
rất thích đọc sách về phân tâm học và thích được nổi tiếng. Rất có thể đây là động
lực thúc đẩy ông tự thú đã giết một đứa trẻ 11 tuổi mà người ta vẫn không bao
giờ tìm thấy xác. Đây là lần “tự thú” đầu tiên của ông. Về sau, do ảnh hưởng của
thuốc an thần mà người ta thường chích cho ông trong những lần hỏi cung, Sture
Bergwall đã nhận trên dưới 30 vụ sát nhân khác.
Câu chuyện của người
từng được mệnh danh là “kẻ ăn thịt người” và “tên giết người hàng loạt khủng
khiếp nhứt” tại Thụy Điển hiện đang đặt lại vấn đề về cả hệ thống tư pháp của
nước này. Văn minh, dân chủ như Thụy Điển mà hệ thống tư pháp vẫn còn sơ hở,
các bản án vẫn chưa được phân minh thì nói gì đến sự “phán đoán” của từng cá
nhân riêng rẽ.
Chính vì có thể
sai lầm trong phán đoán về hành vi của người khác mà tôi thấy mình chẳng có “quyền
hạn” nào để buộc tội hay kết án người khác. Vả lại, tôi tin rằng ngày nào còn
chút lương tri thì ai trong chúng ta cũng đều tự biết kết án chính mình. Tòa án
lương tâm là nơi mà chúng ta không thể chạy thoát. Điều duy nhất mà chúng ta,
những người đều đã và đang “qua cầu” cần để có thể sống hoàn thiện hơn chỉ có
thể là sự cảm thông lẫn nhau mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét