Chu Thập
26.2.16

Cố gắng sống
cho ra người tử tế vốn là điều mà tôi đã được dạy từ thuở đầu còn để chỏm. Bên
cạnh lời dạy dỗ là vô số những mẫu mực để mô phỏng. Từ chuyện cổ tích đến lịch
sử dân tộc, biết bao nhiêu tấm gương đạo đức của người xưa được in vào đầu óc
trẻ thơ của tôi. Riêng trong Đạo của tôi thì lại có hàng hà sa số các thánh. Mỗi
năm, Giáo hội của tôi lại thêm vào danh sách các thánh một vài vị mới. Nhưng
hào quang của các vị thánh sáng chói quá khiến tôi thấy không dễ đến gần để mà
bắt chước. Ngay cả như thánh Phanxicô Assisi, vị thánh nổi tiếng nhứt của thời
Trung Cổ mà lời kinh Hòa Bình đã được hầu như cả thế giới biết đến, cũng vẫn là
một mẫu mực quá cao vời đối với một kẻ phàm phu như tôi. Tôi thích chiêm ngắm một
mẫu gương bằng xương bằng thịt trước mắt hơn.
Cũng may cho
tôi, trong thời đại này, tôi vẫn còn nhìn thấy hai bậc tôn sư trong trường học
làm người. Vị thứ nhứt là Đức Đạt Lai Lạt Ma, người mà tôi chỉ muốn tóm gọn cuộc
đời, gương sáng và giáo huấn trong câu nói: “Tôn giáo của tôi rất đơn giản.Tôn
giáo của tôi là sự tử tế” (My religion is very simple. My religion is kindness). Câu nói này luôn
mang lại cho tôi sự an tâm trong việc “đi đạo” của tôi. Sống tử tế không phải
là sống đạo sao?
Vị thứ hai
mà tôi luôn ngưỡng mộ và cố gắng noi gương dĩ nhiên là Đức Phanxicô, nhà lãnh đạo
của hơn một tỷ người công giáo trên khắp thế giới. Tôi không thích danh hiệu
“giáo hoàng” mà Giáo hội Công giáo Việt Nam của tôi đã gán cho nhà lãnh đạo của
Giáo hội Công giáo toàn cầu. Nghe “phong kiến” và gợi lại những trang đen tối
trong lịch sử của Giáo hội Công giáo. Tôi cũng không cảm thấy thoải mái khi phải tâu với nhà lãnh đạo
của Giáo hội Công giáo bằng kiểu nói: “Đức Thánh Cha” (Holy Father, Saint Père). Dĩ nhiên, mặc dù đang sống, không thiếu những
người có cuộc sống đức độ và thánh thiện đến độ đáng được gọi là “thánh sống”.
Nhưng với tôi, tôn phong một người nào đó làm “thánh” khi họ còn sống, là chối
bỏ cái bản tính con người vốn vẫn còn nặng tham sân si trong người đó.
Tôi luôn ngưỡng
mộ Đức Phanxicô, bởi vì đàng sau nụ cười nhân ái , cảm thông và khiêm tốn là cả một con người cũng bình thường như mọi
người trên thế giới này. Ngưỡng mộ ngài cho nên tôi luôn để tâm theo dõi các
chuyến viếng thăm nước ngoài của ngài mà nhà đạo gọi là “thăm viếng mục vụ”. Gần
đây nhứt là chuyến viếng thăm Mễ Tây Cơ. Đi đâu ngài cũng được những đám đông kỷ
lục đón rước và tung hô. Thật ra, kể từ năm 1964, sau khi Đức Phaolô VI đã phá
vỡ truyền thống tự giam mình trong 4 bức tường của điện Vatican để lên đường
thăm viếng Israel, nơi được xem là linh địa của Kitô Giáo, bất cứ vị giáo hoàng
nào cũng được đám đông người công giáo nghênh đón như một “siêu sao”.
Tôi không ngạc
nhiên khi Đức Phanxicô đi đâu cũng được giáo dân nghênh đón. Tôi cũng chẳng buồn
bỏ giờ để lắng nghe toàn bộ các bài diễn văn của ngài trong các chuyến viếng
thăm mục vụ. Với tôi, hoàn cảnh chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và tình hình
của mỗi Giáo hội được ngài thăm viếng có khác, nhưng dường như vị giáo hoàng
nào cũng chỉ lập lại cùng một giáo huấn dựa trên Tin Mừng của Chúa Giêsu mà
thôi. Thành ra, nếu tôi có dõi bước theo Đức Phanxicô “trên từng cây số” là vì
cung cách của ngài. Một cách cụ thể, lúc nào tôi cũng bị thu hút bởi những cử
chỉ và nhứt là nụ cười nhân ái của ngài. Tôi để ý đến những cử chỉ của ngài khi
tiếp xúc với đám đông, nhứt là với những thành phần thấp kém nhứt trong xã hội.
Trong chuyến
viếng thăm Mễ Tây Cơ vừa qua của ngài, tôi cứ xem đi xem lại thước phim cho thấy
lần đầu tiên Đức Phanxicô đã tỏ ra phẫn nộ. Đã bảo ngài cũng là con người như
tôi mà. Thước phim được chiếu đi chiếu lại cho thấy khi ngài đang tìm cách đến
gần với một em bé thì từ đám đông có hai cánh tay thò ra và kéo tay ngài mạnh đến
độ khiến ngài suýt té sấp lên người của đứa bé. Cú kéo cực mạnh này chỉ có thể
là thể hiện của sự mộ mến mà thôi. Vậy mà vừa được các cận vệ nâng dậy, với một
gương mặt và giọng nói đầy phẫn nộ, Đức Phanxicô liền chỉ tay về phía kẻ đưa tay kéo ngài và gián tiếp nói với đám
đông: “Đừng ích kỷ”.
Đó là câu
nói duy nhứt của ngài mà tôi nhớ được từ chuyến viếng thăm tại quốc gia Nam Mỹ
có đến 83 phần trăm dân số theo Công giáo này. Tôi chưa có dịp đặt chân đến Mễ
Tây Cơ. Tôi chỉ gặp người Mễ tại Hoa Kỳ, nhứt là tại Tiểu bang California. Chỉ
cần một buổi sáng đi rảo qua các khu ngoại ô của Thành phố San José cũng đủ để
“biết” người Mễ, đặc biệt là trong những khu chợ “cửu vạn”, tức những khu mà dân
lao động Mễ, phần đông là di dân lậu, chờ được đón đi làm tại các nông trại.
Tôi hình
dung được cách “sống đạo” của người dân Mễ qua những biểu dương tôn giáo của
người dân Phi Luật Tân, vốn đã được các nhà thừa sai Tây Ban Nha từ Mễ Tây Cơ
sang truyền đạo cho. Tôi nhận thấy lối “sống đạo” của hai dân tộc này gần giống
nhau: trong những đám rước đông người, người ta sẵn sàng chen lấn, giành giựt
và ngay cả dẫm đạp lên nhau để đến gần hoặc sờ cho bằng được một biểu tượng tôn
giáo nào đó. Nếu chỉ dựa trên đám đông hoặc các nghi lễ “hoành tráng” trong các
đám rước để thẩm định về một Giáo hội thì tôi nghi ngờ về sức sống ấy.
“Đừng ích kỷ”
: vị giáo hoàng có nụ cười thân ái này, nếu có phẫn nộ, là cũng chỉ để nhắc nhở
cho các tín hữu công giáo, dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới, hãy sống đạo một
cách quảng đại, cách riêng trong những cử chỉ nhỏ nhặt thường ngày nhứt mà thôi.
Phải chăng ngài cũng muốn nói rằng thiên đàng không phải là một nơi để giành giựt
và dẫm đạp lên nhau để bước vào, mà trái lại chỉ có thể đi vào bằng những bước
đi từ tốn của sự nhân nhượng, quảng đại. Tựu trung, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã
nhắn nhủ, đạo chỉ có thể thực hành bằng sự tử tế mà thôi.
“Đừng ích kỷ”:
có lẽ đây là điều mà Đức Phanxicô cũng muốn ngỏ với ông Donald Trump, người
đang là ứng cử viên tổng thống sáng giá nhứt trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc.
Không biết có phải là một chiến thuật tranh cử không, tỷ phủ Donald Trump thích
khích động tâm lý quần chúng bằng những lời tuyên bố giựt gân. Chẳng hạn như
ngay trong những ngày đầu khi ra tranh cử, ông đã tuyên bố, nếu đắc cử, ông sẽ
cho xây một bức tường dọc theo biên giới Mỹ-Mễ để chận đứng làn sóng di dân lậu
của người Mễ ùa vào Hoa Kỳ và bắt chính phủ Mễ phải chi trả phí tổn của việc
xây cất bức tường này. Ông còn khẳng định rằng Mễ Tây Cơ là nước đang gởi bọn tội
phạm và hiếp dâm sang Hoa Kỳ. Ngoài ra,
giựt gân hơn nữa khi ông tuyên bố sẽ không để cho bất cứ một người Hồi giáo nào
được đặt chân đến Mỹ.
Thế giới, nhứt
là Anh Quốc, đã có phản ứng mạnh mẽ trước thái độ bài Hồi giáo của ông Trump.
Riêng Đức Phanxicô, trên chuyến bay từ Mễ Tây Cơ trở về Roma, như thông lệ, đã
dành cho các ký giả đi tháp tùng ngài một cuộc phỏng vấn trong đó, bên cạnh nhiều
vấn đề khác, ngài đã bày tỏ thái độ đối với việc ông Trump muốn xây cất một bức
tường dọc theo biên giới Mễ-Mỹ. Ngài nói nguyên văn như sau: “Một người chỉ
nghĩ đến việc dựng lên những bức tường thay vì làm cầu, người đó không phải là
một tín hữu Kitô. Đây không phải là Tin Mừng”.
Di trú hiện
đang là một trong những vấn đề nhức nhối đối với các chính phủ Tây Phương. Các
nước Âu Châu đang phải đối phó với làn sóng người tầm trú từ Afghanistan, Trung
Đông, nhứt là Syria và Bắc Phi tràn vào lục địa. Còn Hoa Kỳ thì đang phải đối đầu
với những vấn đề do sự hiện diện của hơn 10 triệu người di dân bất hợp pháp,
trong số này có trên 5 triệu người Mễ. Đây là một trong những vấn đề nóng trong
trong các cuộc tranh luận của các ứng cử viên tổng thống Mỹ hiện nay. Đức
Phanxicô biết quá rõ điều đó. Và dĩ nhiên, ngài cũng chẳng có ý can thiệp vào
cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc.
Theo dõi
thái độ hằn học của ông Trump đối với những người di dân lậu tại Hoa Kỳ và nhứt
là óc bài Hồi giáo của ông, tôi hiểu được bài học mà Đức Phanxicô muốn nhắn gởi
khi ngài nói đến “những bức tường”. Do sợ hãi trước sự xâm lăng của người Hung
nô, Mông Cổ, người Thổ và những bộ lạc du mục khác từ phương Bắc mà từ thế kỷ
thứ 5 trước công nguyên cho đến thế kỷ 16, Tần Thủy Hoàng và các hoàng đế Trung
Quốc đã cho xây Vạn Lý Trường Thành để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc. Cũng do sợ
hãi, sợ Tây Phương tấn công, sợ người dân bỏ trốn mà tháng 8 năm 1961, chế độ cộng
sản Đông Đức đã cho dựng lên bức tường “ô nhục” Bá Linh. Cũng vì sợ hãi và nghi
kỵ mà chế độ cộng sản Việt Nam cũng cho dựng lên rất nhiều bức tường vô hình để
giam giữ người dân. Tựu trung, khi sợ hãi, con người thường xây đắp tường lũy
và sống co cụm trong nghi kỵ và ích kỷ. Tường lũy thường là biểu trưng của sợ
hãi và ích kỷ. Tôi hiểu như thế về hình tượng của những bức tường mà Đức
Phanxicô muốn ám chỉ đến. Đối lại với tường lũy là hình ảnh của những chiếc cầu.
Xây cầu hay “bắc một nhịp cầu”, trong ngôn ngữ của bất cứ dân tộc nào cũng đều
có nghĩa là bước tới trong tình liên đới, hòa giải, cảm thông và chia sẻ.
Lời kêu gọi
“Đừng ích kỷ” mà Đức Phanxicô đã ngỏ với đám đông người công giáo Mễ tận bên Mễ
Tây Cơ hay lời nhắn nhủ “Hãy xây dựng những chiếc cầu nối” mà ngài muốn nhắn gởi
với ứng cử viên tổng thống Mỹ Donald Trump đều có chung một âm hưởng: hãy biết
ra khỏi chính mình để quan tâm đến người khác. Đó là cốt lõi của Tin Mừng trong
Kitô Giáo và dĩ nhiên đó cũng là tinh yếu của đạo làm người.
Trong cố gắng
học làm người, tôi thường cảm nhận được cốt lõi ấy qua nụ cười nhân ái, cung
cách khiêm tốn, thái độ cảm thông của hai vị tôn sư của tôi là Đức Đạt Lai Lạt
Ma và Đức Phanxicô. Đó là bài học mà tôi không thể không cố gắng thực hành nếu
muốn nên người tử tế hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét