Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2016

Học làm người


Chu Thập
26.2.16
Sau 70 năm cuộc đời, nhìn lại đoạn đường đã đi qua, tôi vẫn thấy mình chưa bao giờ tốt nghiệp trong trường học làm người. Cứ mãi đi tìm thày học đạo mà không bao giờ đắc đạo. Các bậc đạo sĩ thì không bao giờ thiếu. Sách vở “học làm người” cũng vô số kể. Những hình tượng để mô phỏng thì lúc nào cũng có trước mắt. Nhưng trường đời vẫn cứ khó. Cố gắng làm người tử tế sao mà nhọc nhằn quá. Cứ thấy mình như các quan lớn thời xưa: “Ban ngày quan lớn như thần, ban đêm quan lớn tần mần như ma”.
Cố gắng sống cho ra người tử tế vốn là điều mà tôi đã được dạy từ thuở đầu còn để chỏm. Bên cạnh lời dạy dỗ là vô số những mẫu mực để mô phỏng. Từ chuyện cổ tích đến lịch sử dân tộc, biết bao nhiêu tấm gương đạo đức của người xưa được in vào đầu óc trẻ thơ của tôi. Riêng trong Đạo của tôi thì lại có hàng hà sa số các thánh. Mỗi năm, Giáo hội của tôi lại thêm vào danh sách các thánh một vài vị mới. Nhưng hào quang của các vị thánh sáng chói quá khiến tôi thấy không dễ đến gần để mà bắt chước. Ngay cả như thánh Phanxicô Assisi, vị thánh nổi tiếng nhứt của thời Trung Cổ mà lời kinh Hòa Bình đã được hầu như cả thế giới biết đến, cũng vẫn là một mẫu mực quá cao vời đối với một kẻ phàm phu như tôi. Tôi thích chiêm ngắm một mẫu gương bằng xương bằng thịt trước mắt hơn.
Cũng may cho tôi, trong thời đại này, tôi vẫn còn nhìn thấy hai bậc tôn sư trong trường học làm người. Vị thứ nhứt là Đức Đạt Lai Lạt Ma, người mà tôi chỉ muốn tóm gọn cuộc đời, gương sáng và giáo huấn trong câu nói: “Tôn giáo của tôi rất đơn giản.Tôn giáo của tôi là sự tử tế” (My religion is very simple. My religion is kindness). Câu nói này luôn mang lại cho tôi sự an tâm trong việc “đi đạo” của tôi. Sống tử tế không phải là sống đạo sao?
Vị thứ hai mà tôi luôn ngưỡng mộ và cố gắng noi gương dĩ nhiên là Đức Phanxicô, nhà lãnh đạo của hơn một tỷ người công giáo trên khắp thế giới. Tôi không thích danh hiệu “giáo hoàng” mà Giáo hội Công giáo Việt Nam của tôi đã gán cho nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo toàn cầu. Nghe “phong kiến” và gợi lại những trang đen tối trong lịch sử của Giáo hội Công giáo. Tôi cũng không  cảm thấy thoải mái khi phải tâu với nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo bằng kiểu nói: “Đức Thánh Cha” (Holy Father, Saint Père). Dĩ nhiên, mặc dù đang sống, không thiếu những người có cuộc sống đức độ và thánh thiện đến độ đáng được gọi là “thánh sống”. Nhưng với tôi, tôn phong một người nào đó làm “thánh” khi họ còn sống, là chối bỏ cái bản tính con người vốn vẫn còn nặng tham sân si  trong người đó.
Tôi luôn ngưỡng mộ Đức Phanxicô, bởi vì đàng sau nụ cười nhân ái , cảm thông và khiêm tốn  là cả một con người cũng bình thường như mọi người trên thế giới này. Ngưỡng mộ ngài cho nên tôi luôn để tâm theo dõi các chuyến viếng thăm nước ngoài của ngài mà nhà đạo gọi là “thăm viếng mục vụ”. Gần đây nhứt là chuyến viếng thăm Mễ Tây Cơ. Đi đâu ngài cũng được những đám đông kỷ lục đón rước và tung hô. Thật ra, kể từ năm 1964, sau khi Đức Phaolô VI đã phá vỡ truyền thống tự giam mình trong 4 bức tường của điện Vatican để lên đường thăm viếng Israel, nơi được xem là linh địa của Kitô Giáo, bất cứ vị giáo hoàng nào cũng được đám đông người công giáo nghênh đón như một “siêu sao”.
Tôi không ngạc nhiên khi Đức Phanxicô đi đâu cũng được giáo dân nghênh đón. Tôi cũng chẳng buồn bỏ giờ để lắng nghe toàn bộ các bài diễn văn của ngài trong các chuyến viếng thăm mục vụ. Với tôi, hoàn cảnh chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và tình hình của mỗi Giáo hội được ngài thăm viếng có khác, nhưng dường như vị giáo hoàng nào cũng chỉ lập lại cùng một giáo huấn dựa trên Tin Mừng của Chúa Giêsu mà thôi. Thành ra, nếu tôi có dõi bước theo Đức Phanxicô “trên từng cây số” là vì cung cách của ngài. Một cách cụ thể, lúc nào tôi cũng bị thu hút bởi những cử chỉ và nhứt là nụ cười nhân ái của ngài. Tôi để ý đến những cử chỉ của ngài khi tiếp xúc với đám đông, nhứt là với những thành phần thấp kém nhứt trong xã hội.
Trong chuyến viếng thăm Mễ Tây Cơ vừa qua của ngài, tôi cứ xem đi xem lại thước phim cho thấy lần đầu tiên Đức Phanxicô đã tỏ ra phẫn nộ. Đã bảo ngài cũng là con người như tôi mà. Thước phim được chiếu đi chiếu lại cho thấy khi ngài đang tìm cách đến gần với một em bé thì từ đám đông có hai cánh tay thò ra và kéo tay ngài mạnh đến độ khiến ngài suýt té sấp lên người của đứa bé. Cú kéo cực mạnh này chỉ có thể là thể hiện của sự mộ mến mà thôi. Vậy mà vừa được các cận vệ nâng dậy, với một gương mặt và giọng nói đầy phẫn nộ, Đức Phanxicô liền chỉ tay về phía  kẻ đưa tay kéo ngài và gián tiếp nói với đám đông: “Đừng ích kỷ”.
Đó là câu nói duy nhứt của ngài mà tôi nhớ được từ chuyến viếng thăm tại quốc gia Nam Mỹ có đến 83 phần trăm dân số theo Công giáo này. Tôi chưa có dịp đặt chân đến Mễ Tây Cơ. Tôi chỉ gặp người Mễ tại Hoa Kỳ, nhứt là tại Tiểu bang California. Chỉ cần một buổi sáng đi rảo qua các khu ngoại ô của Thành phố San José cũng đủ để “biết” người Mễ, đặc biệt là trong những khu chợ “cửu vạn”, tức những khu mà dân lao động Mễ, phần đông là di dân lậu, chờ được đón đi làm tại các nông trại.
Tôi hình dung được cách “sống đạo” của người dân Mễ qua những biểu dương tôn giáo của người dân Phi Luật Tân, vốn đã được các nhà thừa sai Tây Ban Nha từ Mễ Tây Cơ sang truyền đạo cho. Tôi nhận thấy lối “sống đạo” của hai dân tộc này gần giống nhau: trong những đám rước đông người, người ta sẵn sàng chen lấn, giành giựt và ngay cả dẫm đạp lên nhau để đến gần hoặc sờ cho bằng được một biểu tượng tôn giáo nào đó. Nếu chỉ dựa trên đám đông hoặc các nghi lễ “hoành tráng” trong các đám rước để thẩm định về một Giáo hội thì tôi nghi ngờ về sức sống ấy.
“Đừng ích kỷ” : vị giáo hoàng có nụ cười thân ái này, nếu có phẫn nộ, là cũng chỉ để nhắc nhở cho các tín hữu công giáo, dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới, hãy sống đạo một cách quảng đại, cách riêng trong những cử chỉ nhỏ nhặt thường ngày nhứt mà thôi. Phải chăng ngài cũng muốn nói rằng thiên đàng không phải là một nơi để giành giựt và dẫm đạp lên nhau để bước vào, mà trái lại chỉ có thể đi vào bằng những bước đi từ tốn của sự nhân nhượng, quảng đại. Tựu trung, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhắn nhủ, đạo chỉ có thể thực hành bằng sự tử tế mà thôi.
“Đừng ích kỷ”: có lẽ đây là điều mà Đức Phanxicô cũng muốn ngỏ với ông Donald Trump, người đang là ứng cử viên tổng thống sáng giá nhứt trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc. Không biết có phải là một chiến thuật tranh cử không, tỷ phủ Donald Trump thích khích động tâm lý quần chúng bằng những lời tuyên bố giựt gân. Chẳng hạn như ngay trong những ngày đầu khi ra tranh cử, ông đã tuyên bố, nếu đắc cử, ông sẽ cho xây một bức tường dọc theo biên giới Mỹ-Mễ để chận đứng làn sóng di dân lậu của người Mễ ùa vào Hoa Kỳ và bắt chính phủ Mễ phải chi trả phí tổn của việc xây cất bức tường này. Ông còn khẳng định rằng Mễ Tây Cơ là nước đang gởi bọn tội phạm và hiếp dâm sang Hoa Kỳ.  Ngoài ra, giựt gân hơn nữa khi ông tuyên bố sẽ không để cho bất cứ một người Hồi giáo nào được đặt chân đến Mỹ.
Thế giới, nhứt là Anh Quốc, đã có phản ứng mạnh mẽ trước thái độ bài Hồi giáo của ông Trump. Riêng Đức Phanxicô, trên chuyến bay từ Mễ Tây Cơ trở về Roma, như thông lệ, đã dành cho các ký giả đi tháp tùng ngài một cuộc phỏng vấn trong đó, bên cạnh nhiều vấn đề khác, ngài đã bày tỏ thái độ đối với việc ông Trump muốn xây cất một bức tường dọc theo biên giới Mễ-Mỹ. Ngài nói nguyên văn như sau: “Một người chỉ nghĩ đến việc dựng lên những bức tường thay vì làm cầu, người đó không phải là một tín hữu Kitô. Đây không phải là Tin Mừng”.
Di trú hiện đang là một trong những vấn đề nhức nhối đối với các chính phủ Tây Phương. Các nước Âu Châu đang phải đối phó với làn sóng người tầm trú từ Afghanistan, Trung Đông, nhứt là Syria và Bắc Phi tràn vào lục địa. Còn Hoa Kỳ thì đang phải đối đầu với những vấn đề do sự hiện diện của hơn 10 triệu người di dân bất hợp pháp, trong số này có trên 5 triệu người Mễ. Đây là một trong những vấn đề nóng trong trong các cuộc tranh luận của các ứng cử viên tổng thống Mỹ hiện nay. Đức Phanxicô biết quá rõ điều đó. Và dĩ nhiên, ngài cũng chẳng có ý can thiệp vào cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc.
Theo dõi thái độ hằn học của ông Trump đối với những người di dân lậu tại Hoa Kỳ và nhứt là óc bài Hồi giáo của ông, tôi hiểu được bài học mà Đức Phanxicô muốn nhắn gởi khi ngài nói đến “những bức tường”. Do sợ hãi trước sự xâm lăng của người Hung nô, Mông Cổ, người Thổ và những bộ lạc du mục khác từ phương Bắc mà từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên cho đến thế kỷ 16, Tần Thủy Hoàng và các hoàng đế Trung Quốc đã cho xây Vạn Lý Trường Thành để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc. Cũng do sợ hãi, sợ Tây Phương tấn công, sợ người dân bỏ trốn mà tháng 8 năm 1961, chế độ cộng sản Đông Đức đã cho dựng lên bức tường “ô nhục” Bá Linh. Cũng vì sợ hãi và nghi kỵ mà chế độ cộng sản Việt Nam cũng cho dựng lên rất nhiều bức tường vô hình để giam giữ người dân. Tựu trung, khi sợ hãi, con người thường xây đắp tường lũy và sống co cụm trong nghi kỵ và ích kỷ. Tường lũy thường là biểu trưng của sợ hãi và ích kỷ. Tôi hiểu như thế về hình tượng của những bức tường mà Đức Phanxicô muốn ám chỉ đến. Đối lại với tường lũy là hình ảnh của những chiếc cầu. Xây cầu hay “bắc một nhịp cầu”, trong ngôn ngữ của bất cứ dân tộc nào cũng đều có nghĩa là bước tới trong tình liên đới, hòa giải, cảm thông và chia sẻ.
Lời kêu gọi “Đừng ích kỷ” mà Đức Phanxicô đã ngỏ với đám đông người công giáo Mễ tận bên Mễ Tây Cơ hay lời nhắn nhủ “Hãy xây dựng những chiếc cầu nối” mà ngài muốn nhắn gởi với ứng cử viên tổng thống Mỹ Donald Trump đều có chung một âm hưởng: hãy biết ra khỏi chính mình để quan tâm đến người khác. Đó là cốt lõi của Tin Mừng trong Kitô Giáo và dĩ nhiên đó cũng là tinh yếu của đạo làm người.
Trong cố gắng học làm người, tôi thường cảm nhận được cốt lõi ấy qua nụ cười nhân ái, cung cách khiêm tốn, thái độ cảm thông của hai vị tôn sư của tôi là Đức Đạt Lai Lạt Ma và Đức Phanxicô. Đó là bài học mà tôi không thể không cố gắng thực hành nếu muốn nên người tử tế hơn.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét