Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Nói với chính mình



Chu Thập
18.3.16

Kể từ ngày tôi tập tành viết văn làm báo, thỉnh thoảng có người tặng cho tôi danh hiệu “nhà báo”. Có người còn làm tôi ngượng đến chín người khi gọi tôi là “nhà văn”. Tôi sợ những “chữ bự” được cho vào phía trước hay gắn vào cái đuôi của tên tôi. Cũng may. Nếu còn trong nước biết đâu tôi lại chẳng được mấy ông cộng sản “ưu ái” tặng cho hai chữ “ưu tú”.
Chẳng phải tôi “khiêm tốn nhường bao” như “Bác Hồ” vĩ đại đâu. Sở dĩ tôi không dám nhận bất cứ một danh hiệu nào liên quan đến sinh hoạt viết lách là vì cảm thấy mình không xứng đáng thôi. Đâu phải cứ vẽ được một bức tranh là trở thành họa sĩ. Đâu phải cứ viết được một ca khúc là đương nhiên trở thành nhạc sĩ. Đâu phải cứ bỏ tiền ra thu một cuốn băng là trở thành ca sĩ. Và dĩ nhiên, cứ đâu phải in được một cuốn sách là trở thành văn sĩ. Nói gì đến báo chí. Đâu phải cứ viết một bài báo là nghiễm nhiên  trở thành nhà báo. Ngày nay, với sự bùng nổ các phương tiện truyền thông, ai mà chẳng  mở riêng được  cho mình một “Blog” và tha hồ vung vít với chữ nghĩa. Nhưng tự nó số lượng chữ nghĩa đâu có đủ để “mua” được danh hiệu “nhà văn”, “nhà báo”.
Trước năm 1975, bất cứ ai đi dạy học ở cấp trung học trở lên cũng đều được gọi là “giáo sư”. Mấy ông cộng sản vào Nam đã  hạ các giáo sư trung học xuống một bậc thành “giáo viên”. Nhưng ngày nay ở Việt Nam, các bậc “phó giáo sư” hay “giáo sư tiến sĩ” thì lại chạy đầy đường. Ở nước ngoài thì trái lại, không phải cứ giảng dạy trong đại học là đương nhiên trở thành giáo sư. Phải trầy vi tróc vẩy và đóng góp nhiều công trình nghiên cứu các thày giáo ở bậc đại học mới mong được trao tặng tước hiệu “giáo sư”.
Trong xã hội, có những tước hiệu hay ngành nghề phải được luật pháp thừa nhận mới chính danh. Chẳng hạn như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá hay luật sư, kỹ sư...Họ là những người có bằng cấp hẳn hoi được chính phủ nhìn nhận. Họ có quyền nói lên tước hiệu của mình hay chìa ra tấm danh thiếp mà chẳng sợ phải cảm thấy ngượng ngùng như tôi mỗi khi được gọi là “nhà báo” hay “nhà văn”.
Tôi đã viết được một số  bài báo, nhưng tôi vẫn chưa thấy mình là nhà báo và lại càng không phải là nhà văn. Tôi thấy mình chưa phải là nhà báo là bởi vì sứ mệnh của nhà báo là hướng dẫn dư luận quần chúng. Đó là một sứ mệnh quá cao cả mà tôi lại cảm thấy mình chưa bao giờ có thể đảm nhận với tất cả trách nhiệm của mình được. Viết báo lại cũng là một nghề thiêng liêng và cao cả, bởi vì người cầm bút trước tiên phải là một chứng nhân của sự thật. Câu nói của dân gian “nhà báo nói láo ăn tiền” luôn nhắc nhở và cảnh cáo tôi về điều đó. Cho nên “bút sa là gà chết”. Lời nói thì bay đi, nhưng chữ viết thì vẫn mãi mãi còn đó. Cầm bút hay ngồi vào bàn phím là phải cảm thấy run sợ, bởi vì nếu không tự chủ và để mặc cho các đam mê xỏ mũi lèo lái, người viết có thể vừa viết vừa lách hay bẻ cong ngòi bút để bán mình làm một thứ “văn nô”: nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho chức quyền, nô lệ cho tiền của và nhứt là nô lệ cho sợ hãi và dối trá.
Tôi hiểu được sứ mệnh cao cả của người cầm bút hơn khi đọc bản tin liên quan đến một nhà báo nổi tiếng ở Trung Quốc hiện nay là ông Dương Kế Thằng. Một trong những thiên phóng sự nổi tiếng nhứt của nhà báo này có tựa đề là “Bia Mộ”. Cuốn sách này bị chính quyền Trung Cộng liệt vào danh sách những cuốn sách bị cấm, cho nên chỉ được xuất bản tại Hong Kong vào năm 2008. Tác giả đã bỏ ra 10 năm để thu thập tài liệu, hàng ngàn trang tài liệu của chính Đảng Cộng Sản Trung Quốc, thực hiện không biết bao nhiêu cuộc phỏng vấn và ghi chép đầy đủ về giai đoạn từ năm 1958 đến năm 1961. Đây là thời kỳ đồ tể Mao Trạch Đông thực hiện chính sách được mệnh danh là bước nhảy vọt vĩ đại. Để đeo đuổi giấc mơ qua mặt Anh Quốc về kỹ nghệ sắt thép, Mao Trạch Đông đã sát tế trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa trên 36 triệu người.
Nhờ thiên phóng sự này, Nhà báo Dương Kế Thằng đã được trao tặng giải thưởng Louis M.Lyons về “Lương tâm và Ngay thẳng trong Báo chí” (Louis M.Lyons Award for Conscience and Integrity in Journalism) năm 2016. Louis M. Lyons (1897-1982) là một ký giả Mỹ đã từng cộng tác nhiều năm với báo The Boston Globe. Giải thưởng được đặt theo tên ông là để vinh danh những người làm báo biết tôn trọng lương tâm và sự ngay thẳng.
Trong bài diễn văn nhận giải, ông Dương Kế Thằng đã nói lên nhiều khía cạnh đầy mâu thuẫn của nghề làm báo: đây là một nghề đáng khinh bỉ vì có thể lẫn lộn phải trái, điên đảo đúng sai, tạo ra những lời nói dối có hậu quả to lớn, lừa dối hàng triệu triệu người đọc, nhưng đồng thời cũng là một nghề nghiệp thiêng liêng, cao quý...Nhưng theo ông, “là nghề đáng khinh bỉ hay cao quý, tầm thường hay thiêng liêng, nông cạn hay sâu sắc đều bắt đầu từ lương tâm, nhân cách và nhận thức của người cầm bút. Người phóng viên chân chính sẽ lựa chọn đứng về phía cao quý, thiêng liêng, sâu sắc, nguy hiểm mà đứng xa sự khinh bỉ, nông cạn, thoải mái an nhàn” (http://dcvonline.net/2016/03/13/dien-van-nhan-giai-bao-chi-luong-tri-va-chinh-nghia-louis-m-lyons/).
Không phải là một nhà báo chính hiệu, nhưng mỗi lần ngồi vào bàn phím, tôi cũng luôn nghĩ đến hai chữ “lương tâm”. Với tôi, như tựa đề của những suy tư của một nhà lãnh đạo tôn giáo trong nước đã gợi lên, viết trước tiên là “nói với chính mình”. Và để nói với chính mình, lắng nghe tiếng nói của lương tâm là điều thiết yếu. Nói cách khác, viết là lắng nghe sự mách bảo của lương tâm để từ đó tự nhắn nhủ mình hãy cố gắng sống chân thật, ngay thẳng, vị tha và tử tế. Văn ôn võ luyện. Viết cũng là một cách tập luyện để không ngừng uốn nắn bản thân và sống cho ra người.
Như ông Dương Kế Thằng đã nói trong bài diễn văn nhận Giải “Louis M. Lyons về Lương tâm và Ngay thẳng trong Báo chí”, làm báo là một nghề thiêng liêng cao quý. Phản bội sứ mệnh cao cả của mình, người làm báo không những đánh mất chính mình, mà còn tàn phá và giết hại cả xã hội và dân tộc. Có bảo rằng chính giới trí thức mà cụ thể là nhà văn nhà báo ở Miền Bắc đã làm cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng phá sản như hiện nay không phải là điều quá đáng. Không có sự tiếp tay hay “hà hơi tiếp sức” của giới trí thức Miền Bắc thì dù có ba đầu sáu tay, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không tài nào làm cho xã hội và con người Việt Nam biến chất như ngày nay. Dối trá, ích kỷ và vô cảm là 3 căn bệnh trầm trọng nhứt mà những người cộng sản đã tạo ra cho xã hội Việt Nam hiện nay. Trước khi được tiêm vào máu của người dân Việt Nam, những tính xấu ấy cũng giống như các thứ vi khuẩn độc hại đã được chính giới lãnh đạo cộng sản rước vào da thịt mình rồi cấy sang các nhà trí thức để rồi từ đó truyền sang cho dân chúng. Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã có lý để khẳng định rằng “ích kỷ nhất là giới lãnh đạo đảng Cộng sản...Cũng giống như sự ích kỷ, thành phần giả dối nhất ở Việt Nam hiện nay là giới lãnh đạo”. Nhưng bên cạnh đó, người ta không thể không nhắc đến các “văn nô”, những người đã bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm và sự thật để đưa sự dối trá và tính ích kỷ lên ngôi trong xã hội.
Cũng như nhiều người Việt đang sống ở hải ngoại, mỗi lần nhìn vào xã hội Việt Nam hiện nay, tôi thấy ngao ngán. Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã không mấy lạc quan về xã hội Việt Nam. Theo ông “ba tính xấu vừa kể (dối trá, ích kỷ, vô cảm) là những thử thách lớn nhất của người Việt Nam hiện nay. Với ba tính cách ấy, chúng ta không hy vọng gì chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ sớm. Ngay cả khi chế độ Cộng sản sụp đổ, ba tính cách ấy cũng sẽ trở thành những trở ngại to lớn cho quá trình xây dựng một đất nước phát triển, ổn định, dân chủ và độc lập”.

Chu Thập 2009
Úc Đại Lợi, nơi tôi đã chọn làm quê hương thứ hai, quả là một “đất nước phát triển, ổn định, dân chủ và độc lập”. Bên cạnh ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, truyền thông mà báo chí là linh hồn cũng được xem như một quyền lực thứ tư trong một quốc gia. Phát triển, ổn định, dân chủ và độc lập không đương nhiên  hoàn toàn xóa bỏ được ba tính xấu là dối trá, ích kỷ và vô cảm khỏi xã hội. Xã hội nào, dù có văn minh tiến bộ đến đâu, cũng không tránh khỏi ba tính xấu ấy. Ở đâu và trong bất cứ sinh hoạt nào của con người cũng đều có ba tính xấu ấy. Nhưng chắc chắn, trong một đất nước phát triển, ổn định, dân chủ và độc lập như Úc Đại Lợi, ba tính xấu ấy không phải là những tính xấu nổi trội trong xã hội. Và trong một xã hội như thế, báo chí công cụ, nhà báo và văn nô không thể có đất sống. Lương tâm và sự ngay thẳng vẫn luôn được trân trọng, đề cao và cổ súy. Chính vì tin tưởng vào điều đó mà hàng ngày tôi xem việc đọc báo, xem tin tức và ngay cả thưởng thức các chương trình văn nghệ như những món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống. Sở dĩ tôi đặt niềm tin nơi các phương tiện truyền thông và báo chí là bởi vì “lương tâm và sự ngay thẳng” chính là thước đo sức sống và sự lành mạnh của xã hội. Truyền thông và báo chí trong một đất nước dân chủ và tự do cũng có mặt trong cuộc sống của tôi để nhắc nhở tôi về đủ mọi thứ cạm bẫy trong xã hội. Có nhiều lúc những dục vọng thấp hèn, xấu xa che mờ, lấn át hay đè nén trên lương tâm. Truyền thông và báo chí vì phải tôn trọng lương tâm và sự ngay thẳng luôn là tiếng chuông cảnh tỉnh tôi về những cạm bẫy như thế.
Mỗi lần cầm bút là mỗi lần muốn “nói với chính mình” cho nên tôi luôn cố gắng lắng nghe sự mách bảo của lương tâm. Đó là tiếng nói xuất phát từ đáy lòng luôn nhắn nhủ tôi phải làm điều thiện tránh điều ác và hãy làm cho người khác những gì tôi cũng muốn họ làm cho tôi. Ngoài ra,  nói như Mahatma Gandhi, lương tâm cũng là một thứ tòa án trong thẩm sâu tâm hồn con người. Ông nói: “ Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng. Có tòa án còn cao hơn tòa án công lý và đó là tòa án của lương tâm. Nó thay thế cho mọi tòa án khác”.
Kết thúc Truyện Kiều, một tuyệt tác không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của cả nhân loại, cụ Nguyễn Du chỉ biết khiêm tốn thốt lên: “Lời quê góp nhặt dông dài, mua vui cũng được một vài trống canh ”. Phần tôi, tôi cảm thấy vui khi cầm bút để “nói với chính mình”. Bởi lẽ đó là lúc tôi cố gắng lắng nghe lời nhắn nhủ của lương tâm để sống cho ra người chân thật và tử tế hơn.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét