Chu Thập
18.3.16

Chẳng phải
tôi “khiêm tốn nhường bao” như “Bác Hồ” vĩ đại đâu. Sở dĩ tôi không dám nhận bất
cứ một danh hiệu nào liên quan đến sinh hoạt viết lách là vì cảm thấy mình
không xứng đáng thôi. Đâu phải cứ vẽ được một bức tranh là trở thành họa sĩ.
Đâu phải cứ viết được một ca khúc là đương nhiên trở thành nhạc sĩ. Đâu phải cứ
bỏ tiền ra thu một cuốn băng là trở thành ca sĩ. Và dĩ nhiên, cứ đâu phải in được
một cuốn sách là trở thành văn sĩ. Nói gì đến báo chí. Đâu phải cứ viết một bài
báo là nghiễm nhiên trở thành nhà báo.
Ngày nay, với sự bùng nổ các phương tiện truyền thông, ai mà chẳng mở riêng được cho mình một “Blog” và tha hồ vung vít với chữ nghĩa. Nhưng tự nó số lượng chữ nghĩa đâu có đủ để “mua” được
danh hiệu “nhà văn”, “nhà báo”.
Trước năm
1975, bất cứ ai đi dạy học ở cấp trung học trở lên cũng đều được gọi là “giáo
sư”. Mấy ông cộng sản vào Nam đã hạ các giáo sư trung học xuống một bậc thành
“giáo viên”. Nhưng ngày nay ở Việt Nam, các bậc “phó giáo sư” hay “giáo sư tiến
sĩ” thì lại chạy đầy đường. Ở nước ngoài thì trái lại, không phải cứ giảng dạy
trong đại học là đương nhiên trở thành giáo sư. Phải trầy vi tróc vẩy và đóng
góp nhiều công trình nghiên cứu các thày giáo ở bậc đại học mới mong được trao
tặng tước hiệu “giáo sư”.
Trong xã hội,
có những tước hiệu hay ngành nghề phải được luật pháp thừa nhận mới chính danh.
Chẳng hạn như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá hay luật sư, kỹ sư...Họ là những
người có bằng cấp hẳn hoi được chính phủ nhìn nhận. Họ có quyền nói lên tước hiệu
của mình hay chìa ra tấm danh thiếp mà chẳng sợ phải cảm thấy ngượng ngùng như
tôi mỗi khi được gọi là “nhà báo” hay “nhà văn”.
Tôi đã viết
được một số bài báo, nhưng tôi vẫn chưa
thấy mình là nhà báo và lại càng không phải là nhà văn. Tôi thấy mình chưa phải
là nhà báo là bởi vì sứ mệnh của nhà báo là hướng dẫn dư luận quần chúng. Đó là
một sứ mệnh quá cao cả mà tôi lại cảm thấy mình chưa bao giờ có thể đảm nhận với
tất cả trách nhiệm của mình được. Viết báo lại cũng là một nghề thiêng liêng và
cao cả, bởi vì người cầm bút trước tiên phải là một chứng nhân của sự thật. Câu
nói của dân gian “nhà báo nói láo ăn tiền” luôn nhắc nhở và cảnh cáo tôi về điều
đó. Cho nên “bút sa là gà chết”. Lời nói thì bay đi, nhưng chữ viết thì vẫn mãi
mãi còn đó. Cầm bút hay ngồi vào bàn phím là phải cảm thấy run sợ, bởi vì nếu
không tự chủ và để mặc cho các đam mê xỏ mũi lèo lái, người viết có thể vừa viết
vừa lách hay bẻ cong ngòi bút để bán mình làm một thứ “văn nô”: nô lệ cho quyền
lực, nô lệ cho chức quyền, nô lệ cho tiền của và nhứt là nô lệ cho sợ hãi và dối trá.
Tôi hiểu được
sứ mệnh cao cả của người cầm bút hơn khi đọc bản tin liên quan đến một nhà báo
nổi tiếng ở Trung Quốc hiện nay là ông Dương Kế Thằng. Một trong những thiên
phóng sự nổi tiếng nhứt của nhà báo này có tựa đề là “Bia Mộ”. Cuốn sách này bị chính quyền Trung Cộng liệt vào danh sách
những cuốn sách bị cấm, cho nên chỉ được xuất bản tại Hong Kong vào năm 2008.
Tác giả đã bỏ ra 10 năm để thu thập tài liệu, hàng ngàn trang tài liệu của
chính Đảng Cộng Sản Trung Quốc, thực hiện không biết bao nhiêu cuộc phỏng vấn
và ghi chép đầy đủ về giai đoạn từ năm 1958 đến năm 1961. Đây là thời kỳ đồ tể
Mao Trạch Đông thực hiện chính sách được mệnh danh là bước nhảy vọt vĩ đại. Để
đeo đuổi giấc mơ qua mặt Anh Quốc về kỹ nghệ sắt thép, Mao Trạch Đông đã sát tế
trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa trên 36 triệu người.
Nhờ thiên
phóng sự này, Nhà báo Dương Kế Thằng đã được trao tặng giải thưởng Louis
M.Lyons về “Lương tâm và Ngay thẳng trong Báo chí” (Louis M.Lyons Award for Conscience and Integrity in Journalism) năm 2016.
Louis M. Lyons (1897-1982) là một ký giả Mỹ đã từng cộng tác nhiều năm với báo
The Boston Globe. Giải thưởng được đặt theo tên ông là để vinh danh những người
làm báo biết tôn trọng lương tâm và sự ngay thẳng.
Trong bài diễn
văn nhận giải, ông Dương Kế Thằng đã nói lên nhiều khía cạnh đầy mâu thuẫn của
nghề làm báo: đây là một nghề đáng khinh bỉ vì có thể lẫn lộn phải trái, điên đảo
đúng sai, tạo ra những lời nói dối có hậu quả to lớn, lừa dối hàng triệu triệu
người đọc, nhưng đồng thời cũng là một nghề nghiệp thiêng liêng, cao
quý...Nhưng theo ông, “là nghề đáng khinh
bỉ hay cao quý, tầm thường hay thiêng liêng, nông cạn hay sâu sắc đều bắt đầu từ
lương tâm, nhân cách và nhận thức của người cầm bút. Người phóng viên chân
chính sẽ lựa chọn đứng về phía cao quý, thiêng liêng, sâu sắc, nguy hiểm mà đứng
xa sự khinh bỉ, nông cạn, thoải mái an nhàn” (http://dcvonline.net/2016/03/13/dien-van-nhan-giai-bao-chi-luong-tri-va-chinh-nghia-louis-m-lyons/).
Không phải
là một nhà báo chính hiệu, nhưng mỗi lần ngồi vào bàn phím, tôi cũng luôn nghĩ
đến hai chữ “lương tâm”. Với tôi, như tựa đề của những suy tư của một nhà lãnh
đạo tôn giáo trong nước đã gợi lên, viết trước tiên là “nói với chính mình”. Và để nói với chính mình, lắng nghe tiếng nói
của lương tâm là điều thiết yếu. Nói cách khác, viết là lắng nghe sự mách bảo của
lương tâm để từ đó tự nhắn nhủ mình hãy cố gắng sống chân thật, ngay thẳng, vị
tha và tử tế. Văn ôn võ luyện. Viết cũng là một cách tập luyện để không ngừng uốn
nắn bản thân và sống cho ra người.
Như ông
Dương Kế Thằng đã nói trong bài diễn văn nhận Giải “Louis M. Lyons về Lương tâm
và Ngay thẳng trong Báo chí”, làm báo là một nghề thiêng liêng cao quý. Phản bội
sứ mệnh cao cả của mình, người làm báo không những đánh mất chính mình, mà còn
tàn phá và giết hại cả xã hội và dân tộc. Có bảo rằng chính giới trí thức mà cụ
thể là nhà văn nhà báo ở Miền Bắc đã làm cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng
phá sản như hiện nay không phải là điều quá đáng. Không có sự tiếp tay hay “hà
hơi tiếp sức” của giới trí thức Miền Bắc thì dù có ba đầu sáu tay, Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không tài nào làm cho xã hội và con người Việt Nam
biến chất như ngày nay. Dối trá, ích kỷ và vô cảm là 3 căn bệnh trầm trọng nhứt
mà những người cộng sản đã tạo ra cho xã hội Việt Nam hiện nay. Trước khi được
tiêm vào máu của người dân Việt Nam, những tính xấu ấy cũng giống như các thứ
vi khuẩn độc hại đã được chính giới lãnh đạo cộng sản rước vào da thịt mình rồi
cấy sang các nhà trí thức để rồi từ đó truyền sang cho dân chúng. Tiến sĩ Nguyễn
Hưng Quốc đã có lý để khẳng định rằng “ích kỷ nhất là giới lãnh đạo đảng Cộng sản...Cũng
giống như sự ích kỷ, thành phần giả dối nhất ở Việt Nam hiện nay là giới lãnh đạo”.
Nhưng bên cạnh đó, người ta không thể không nhắc đến các “văn nô”, những người
đã bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm và sự thật để đưa sự dối trá và tính ích kỷ
lên ngôi trong xã hội.
Cũng như nhiều
người Việt đang sống ở hải ngoại, mỗi lần nhìn vào xã hội Việt Nam hiện nay,
tôi thấy ngao ngán. Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã không mấy lạc quan về xã hội Việt
Nam. Theo ông “ba tính xấu vừa kể (dối
trá, ích kỷ, vô cảm) là những thử thách lớn nhất của người Việt Nam hiện nay. Với
ba tính cách ấy, chúng ta không hy vọng gì chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ sớm. Ngay
cả khi chế độ Cộng sản sụp đổ, ba tính cách ấy cũng sẽ trở thành những trở ngại
to lớn cho quá trình xây dựng một đất nước phát triển, ổn định, dân chủ và độc
lập”.
Chu Thập 2009 |
Mỗi lần cầm
bút là mỗi lần muốn “nói với chính mình” cho nên tôi luôn cố gắng lắng nghe sự
mách bảo của lương tâm. Đó là tiếng nói xuất phát từ đáy lòng luôn nhắn nhủ tôi
phải làm điều thiện tránh điều ác và hãy làm cho người khác những gì tôi cũng
muốn họ làm cho tôi. Ngoài ra, nói như
Mahatma Gandhi, lương tâm cũng là một thứ tòa án trong thẩm sâu tâm hồn con người.
Ông nói: “ Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng. Có tòa án còn
cao hơn tòa án công lý và đó là tòa án của lương tâm. Nó thay thế cho mọi tòa
án khác”.
Kết thúc
Truyện Kiều, một tuyệt tác không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của cả nhân loại,
cụ Nguyễn Du chỉ biết khiêm tốn thốt lên: “Lời quê góp nhặt dông dài, mua vui
cũng được một vài trống canh ”. Phần tôi, tôi cảm thấy vui khi cầm bút để “nói
với chính mình”. Bởi lẽ đó là lúc tôi cố gắng lắng nghe lời nhắn nhủ của lương
tâm để sống cho ra người chân thật và tử tế hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét