Chu Thập
3.4.12
Hôm nay là ngày mà các tín hữu Kitô Việt
nam cũng như tại hầu hết mọi nơi trên thế giới gọi là “Thứ Sáu Tuần Thánh”. Ở
Úc, ngày này được gọi là “Good Friday”, một ngày nghỉ lễ (Public Holiday). Tôi
không biết “good” có đồng nghĩa với “thánh” không. Nhưng cứ sự thường, “good”
chỉ có nghĩa là tốt đẹp mà thôi. Ngày tưởng niệm Chúa Giêsu chết được gọi “Good”
(tốt) là phải, bởi vì ra đường thấy đâu đâu cũng có người lên đường đi nghỉ lễ
Phục Sinh và sinh hoạt có khi lại còn náo nhiệt hơn ngày thường. Trái với bầu
khí vui chơi nhộn nhịp này, vào các nhà thờ ở Việt nam, nhứt là ở miền Bắc hay khu
“Bắc kỳ di cư” ở miền Nam, người ta chỉ thấy toàn một mầu tang chế buồn thảm:
nhà thờ trắng xóa khăn tang, giọng “ngắm nhân tài” hay “ngắm đứng” nghe thật não
nuột!
Ở những nước nói tiếng Anh, người ta còn
gọi Ngày thứ sáu tuần thánh là “Black Friday” (thứ sáu tối đen). Kiểu nói này xem
ra gợi hình và gần với Kinh Thánh hơn cả, bởi vì Kinh Thánh viết rằng khi Chúa
Giêsu tắt thở thì “bấy giờ đã gần tới giờ
thứ sáu (3 giờ chiều), thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ 9.
Mặt trời ngưng chiếu sáng” (Lc. 23,44-45). Tại Phi luật tân, quốc gia có
đông người công giáo nhứt Á châu, thứ sáu tuần thánh đúng là một ngày “tối
đen”. Ở quốc gia mà Đạo công giáo được người Tây ban nha mang đến ngang qua ngã
Mễ Tây Cơ cùng với vô số tập tục lỉnh kỉnh của Châu Mỹ Latinh này, Thứ Sáu Tuần
Thánh được tuân giữ một cách triệt để nhứt. Không kể đến những vụ đóng đinh “thật
sự” được tổ chức tại một làng quê cách thủ đô Manila khoảng 60 cây số về hướng
Bắc cũng như cảnh những người trùm đầu, mình trần, đi chân không giữa cái nắng
trên 35 độ C, dùng roi sắt quất vào người cho đến khi máu chảy đầm đìa...cả nước
Phi luật tân hầu như chìm ngập trong “tăm tối” của ngày thứ sáu tuần thánh. Ở một
nước mà tiếng động cơ máy nổ đủ loại hoạt động suốt ngày đêm, tạo ra một thứ ô
nhiễm âm thanh khủng khiếp, người ta có cảm tưởng như mọi thứ đều ngưng lại
trong ngày thứ sáu tuần thánh, cứ như là bị “black out” (cúp điện) toàn diện.
Công sở, hãng xưởng, trường học, chợ búa, hàng quán đóng cửa đã đành, mà các
phương tiện di chuyển công cộng cũng chẳng có hay bị hạn chế tối đa. Bình thường,
cứ 4, 5 giờ sáng, người dân Phi đã thức giấc và tuốn ra các ngã đường. Nhưng
hôm nay, người ta kiêng cữ đến độ không dám ra khỏi nhà. Bốn bề yên lặng. Tôi
có cảm tưởng như mỗi năm người dân hải đảo vốn thích ca hát ồn ào này dành ngày
thứ sáu tuần thánh để tập sống thinh lặng. Sống và làm việc tại Phi luật tân một
thời gian, tôi nhận thấy đây là “bài học” cần thiết hơn bất cứ môn học nào.
Bài học vỡ lòng mà người Việt nam nào
cũng phải học là “học ăn, học nói...” Tôi thấy chẳng có cha mẹ nào dạy con phải
học “im lặng” cả. Mãi cho đến khi lên Trung Học, bắt đầu tập làm văn “nghị luận”,
học sinh mới được dạy để bình câu “lời
nói là bạc,thinh lặng là vàng”. Đây là dịp để làm quen với bao lời dạy của
các bậc thánh hiền Đông Tây về sự thinh lặng. Nhìn chung, ở đâu và thời nào con người cũng đề
cao và trân quý sự thinh lặng. Ở Á đông, những người có tham vọng ra “làm quan”
thường tìm một nơi hẻo lánh để ở ẩn chờ thời. Bên trời Tây, các bậc thức giả
hay nhà khoa học cũng giam mình trong thinh lặng để nghiền ngẫm và nghiên cứu.
Gặp lúc buộc phải lên tiếng nói nhưng lại im lặng, thì im lặng có thể là một
thái độ ích kỷ, hèn nhát hay thiếu trách nhiệm. Nhưng im lặng, nhứt là khi bị bịt
miệng, có khi lại là tiếng nói mạnh mẽ, hùng hồn hơn cả.
Mới đây, cuốn phim “câm” và trắng đen có
tựa đề “The Artist” (người nghệ sĩ)
đã gây chấn động tại thủ đô điện ảnh Hollywood. Sự kiện cuốn phim “câm” này đạt
được nhiều giải thưởng tại liên hoan phim Cannes, Pháp, 7 giải BAFTA tại Anh Quốc
và giựt được đến 20 giải Oscar tại Hoa kỳ hôm 26 tháng 2 vừa qua, cho thấy giá
trị và ý nghĩa của cuốn phim. Sau khi nhận giải Oscar, đạo diễn của phim “The
Artist” là ông Michel Hazanavicius đã so sánh tiếng nói với sự thinh lặng như
sau: “Tiếng nói hữu dụng, nhưng chỉ hữu dụng
thôi. Tuy nhiên, nó cũng làm giảm giá trị của truyền thông. Khi một đứa trẻ
không biết nói, cười với bạn, làm bạn xúc động, khác với cái cười của người lớn.
Ngay cả với những người bạn yêu, không phải lúc nào bạn cũng dùng lời nói để biểu
lộ những việc quan trọng. Tôi nghĩ khi bạn không cần phải nói, đó mới thực sự
là sức mạnh” (x. Đinh Từ Thức, The Artist, Oscars và Cộng sản, Việt luận 23/3/2012).
Cuốn phim “câm” và trắng đen này không
thể không gợi lại cho những người say mê điện ảnh những cuốn phim “câm” của
Charlie Chaplin (1889-1977) vào thời kỳ phôi thai của nghệ thuật thứ bảy. Diễn
viên kiêm đạo diễn người Anh mà lúc nhỏ chúng ta quen gọi là “Charlot” này đã
mang lại cho chúng ta không chỉ những trận cười “nghiêng ngả”, mà còn khơi gợi
những suy tư nhức nhối về thân phận con người, khiến chúng ta không chỉ cười mà
còn muốn khóc là khác. Không cần một lời nói, thiên tài điện ảnh này đã khiến
chúng ta cười ra nước mắt theo đúng nghĩa. Ông đã thể hiện đúng chức năng của “phim
ảnh”: nói mà không cần phải dùng lời nói! Bởi lẽ, như đạo diễn Hazanavicius đã
nói, lời nói “cũng làm giảm giá trị của
truyền thông”.
Ở thời đại thông tin toàn cầu này, cứ tưởng
“nghe-nhìn” (audio-video) là hoạt động chính, nhưng dường như con người lại nói
nhiều hơn nghe nhìn. Theo tôi, một trong những hình ảnh tiêu biểu nhứt của thời
đại thông tin toàn cầu này chính là chiếc điện thoại di động. Hãy thử gia nhập
vào một đoàn người đang chen chúc nhau trên những đường phố nhộn nhịp nhứt của
những thành phố lớn. Hình ảnh dễ thấy nhứt vẫn là cảnh người người vừa đi vừa
áp điện thoại di động vào tai để nói. Vừa đi vừa khoa tay múa chân vừa cười cười
nói nói, họ chen chúc trong đám đông mà y như chỗ không người. Không gì buồn cười
bằng khi nghe có tiếng người đang nói sau lưng mình. Quay lại thấy họ đang nói
chuyện với ai đó, nhưng thoạt nhìn cứ tưởng như họ đang nói “xàm” một mình.
Truyền thông mà cứ như “độc thoại”. Ở thời đại mà những phương tiện truyền
thông ngày càng tối tân tưởng có sức “nối mạng” làm cho con người ở xa gần gũi
với nhau hơn, trong thực tế lại càng làm cho con người đang sát gần nhau trở
nên xa lạ hơn. Nếu có “liên kết” với nhau thì cái mạng lưới ấy có khi cũng chỉ
là một thế giới ảo. Trong thế giới ấy, càng muốn “nói”, càng muốn “giải bày”
thì con người lại càng cô đơn hơn.
Bớt nói để biết lắng nghe hơn: đó là
nguyên tắc thực tiễn mà ông Dale Carnegie đã đề ra trong cuốn sách “Đắc nhân
tâm” (How to win friends and influence people). Trong chương tư (bản dịch của Nguyễn
Hiến Lê), Dale Carnegie kể lại rằng một hôm ông được mời dự tiệc. Trong câu
chuyện trao đổi sau bữa tiệc, một người phụ nữ muốn ông kể về những danh lam thắng
cảnh ở Âu Châu. Biết người đàn bà này vừa mới thực hiện một chuyến du lịch ở
Phi Châu, ông Carnegie chỉ nói vài câu rồi gợi ý cho bà kể lại chuyến đi. Ông
ghi lại rằng người đàn bà liền thao thao bất tuyệt trong 45 phút đồng hồ mà chẳng
còn ngó ngàng gì đến những thắng cảnh ở Âu châu nữa. Ông thấy rằng người đàn bà
này “chỉ muốn gặp được người chăm chú nghe để bà có cái vui được dịp nói về
mình và những kỷ niệm của mình”. Theo ông, có vô số người như người phụ nữ này.
“Tất cả chúng ta đều muốn diễn thuyết
khi có người chăm chú nghe ta”.
Trong một bữa cơm tối khác, Carnegie
cũng lân la đến gần một nhà thực vật học nổi tiếng. Ông gợi ý cho nhà khoa học
này nói về những kiến thức khoa học của mình. Thế là bài lecture (giảng huấn) của nhà khoa học kéo dài cho đến nửa đêm.
Carnegie đành xin phép ra về. Sau đó, có người cho hay rằng khi ông “vừa ra khỏi
phòng, nhà thông thái đó quay lại nói với ông chủ nhà rằng Carnegie là một người
“ăn nói có duyên”. Kỳ thực, trong suốt buổi nói chuyện, ông chỉ là người gợi
chuyện cho nhà thông thái “bày tỏ” kiến thức của mình.
Tác giả kể lại rất nhiều giai thoại như
thế và kết luận rằng “người nói chuyện với
ta quan tâm tới những thị dục, những vấn đề của họ trăm phần thì chỉ quan tâm đến
ta, đến nỗi thắc mắc của ta một phần thôi. Bệnh nhức răng dày vò người đó hơn
là cảnh đói kém làm chết cả triệu dân Trung quốc. Một cái nhọt tai ở cổ người
đó làm cho người đó lo lắng hơn bốn chục nạn động đất ở Châu Phi. Lần sau, có
nói chuyện với ai, xin bạn nhớ tới điều đó”.
Thinh lặng là để lắng nghe và lắng nghe
trước tiên là lắng nghe người khác. Có khi thinh lặng chỉ là mồ chôn của sự cô
đơn. Người ta thinh lặng là chỉ để “bế quan tỏa cảng” với người khác hay để gậm
nhấm những buồn phiền, nỗi đau hay cơn giận của mình. Một cánh cửa đóng sầm lại:
đó là hình ảnh chúng ta thường thấy về sự thinh lặng này. Dù có được thực thi với
một kỷ luật sắt hay trong một bầu khí trang nghiêm đến đâu, một sự thinh lặng
như thế chỉ gia tăng sự cô đơn của con người mà thôi. Trong một số tu viện Kitô
giáo, thinh lặng luôn được xem là quy luật nghiêm nhặt nhứt. Có những tu viện,
mỗi năm các tu sĩ chỉ được nói chuyện một ngày. Có người lại bi thảm hóa đời sống
tu trì đến độ tưởng tượng ra rằng mỗi năm các tu sĩ chỉ được phép nói một câu.
Thành ra mới có chuyện kể rằng trong một tu viện nọ, phải ăn cái món “súp” mặn
chát, mà các tu sĩ phải “cắn răng” chịu
đựng. Năm đầu, khi được nói một câu, một vị tu sĩ hình như chỉ chờ có bấy nhiêu
để “dành” cái câu nói “quý báu” cho người phụ trách nhà bếp: “Súp mặn quá”. Vậy mà đâu vẫn vào đó. Người phụ trách nhà bếp,
có lẽ vì muốn cho các anh em của mình tiến tới trong “đàng nhân đức” chăng, vẫn
cứ mạnh tay cho muối vào súp. Chờ đúng một năm sau, nhân đức có gia tăng cho
anh em tu sĩ không thì không rõ nhưng nhà bếp lại cũng nhận cái “đặc ân” năm
ngoái: “Súp vẫn mặn”.
Chuyện nghe như đùa. Nhưng trong cái thế
giới nhỏ bé của một tu viện, có khi người ta thinh lặng không phải để ra khỏi
chính mình và lắng nghe tiếng nói của người khác hay tu tập thêm một thứ nhân đức
siêu phàm nào, mà chỉ để gậm nhấm nỗi đau khổ và cô đơn của mình.
Thinh lặng là để lắng nghe người khác.
Nhưng để có thể lắng nghe người khác, con người cũng cần phải biết lắng nghe
chính mình. Người ta có thể bịt tai để không nghe người khác hay những ồn ào
náo nhiệt của thế giới bên ngoài, nhưng không ai có thể chạy trốn khỏi tiếng
nói lương tâm của mình. Ở đó, trong thẩm cung của cõi lòng, ta nghe được phán
quyết về những hành vi của mình cũng như mệnh lệnh “hãy làm điều thiện và tránh
điều ác”. Đây là tiếng nói mà tôi vẫn nghe được khi dạo bước trong vườn vào buổi
sáng sớm hay lúc chiều tà. Đó là những giây phút tôi trân quý nhứt, bởi vì
trong khung cảnh thanh vắng và khi mọi sự đã lắng đọng, tôi thấy mình mới có thể
trở về với chính mình và lắng nghe được tiếng nói sâu thẳm từ nội tâm.
Lắng nghe người khác, lắng nghe tiếng
nói sâu thẳm của lương tâm, là người tín hữu Kitô, tôi cũng luôn được mời gọi để
lắng nghe tiếng nói của Chúa. Mẹ Teresa Calcutta (1910- 1997) người nữ tu gốc
Albani suốt một đời tận tụy phục vụ những người thấp bé và khốn khổ nhứt trong
xã hội, đã nói: “Chính trong thinh lặng của
cõi lòng mà Thiên Chúa nói. Nếu bạn tìm kiếm Ngài trong cầu nguyện và thinh lặng,
Ngài sẽ nói với bạn. Lúc đó, bạn sẽ biết rằng bạn là hư không. Và chỉ khi nào bạn
ý thức được sự hư không, trống rỗng của bạn, Thiên Chúa mới có thể lấp đầy bạn
bằng chính Ngài. Những tâm hồn cầu nguyện là những tâm hồn biết thinh lặng”
(trích trong Mother Teresa, In the Heart of the World: thoughts, Stories and
Prayers). Mẹ cũng khuyên: “Chúng ta cần phải tìm kiếm Chúa và Ngài không thể
tìm gặp trong nơi ồn ào, náo nhiệt. Chúa là bạn của thinh lặng. Hãy nhìn thiên
nhiên: cỏ cây, bông hoa đều lớn lên trong thinh lặng. Hãy nhìn trăng sao và mặt
trời: chúng di chuyển trong thinh lặng...”
Thật vậy, ngay cả sự kiện Chúa Phục sinh
cũng xảy ra trong thinh lặng. Thinh lặng giúp con người trở nên chín chắn và trưởng
thành trong suy nghĩ để từ đó sẵn sàng và nhứt là dám lên tiếng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét