Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Cũng tại con chồn



Chu Thập
7.8.12


Thích sống gần rừng núi cho nên cuộc sống của tôi tuy chưa đến nỗi phải học những cách thức mưu sinh của anh chàng Bear Grylls trong tập phim Man vs Wild nhưng cũng bất đắc dĩ trở thành một tay “trường kỳ kháng chiến” chống lại một số “cư dân bản địa” như Gà tây rừng (brush turkey), Possum, Goanna, Kỳ đà...Nghĩ cho cùng, “họ” đã sống ở đây hàng bao nhiêu đời rồi. Mình là người đến “xâm chiếm” lãnh thổ của “họ” cho nên “họ” cứ đến “hạch hẹ” mình cũng là chuyện đương nhiên thôi. Chính phủ Úc không những cảm thấy có nghĩa vụ phải chăm sóc cho người thổ dân, mà cũng “o bế” các “cư dân bản địa” này tối đa. Lỡ xâm phạm đến tính mạng của “họ”, không đi tù thì cũng chẳng biết lấy tiền đâu mà nộp phạt. Biết như thế cho nên trong quan hệ với các “cư dân” này, tôi thấy nếu không chấp nhận sống chung hòa bình thì ít ra cũng phải rất cẩn thận.
Tôi “ghét” nhứt là cái giống gà tây rừng. Mùa này là cao điểm của những cuộc hành quân tảo thanh của chúng. Bất cứ cây nào vừa trồng hôm trước, hôm sau bị chúng đào lên ngay. Có rào dậu kỹ đến đâu cũng chẳng ăn thua gì với đôi chân nhọn và cứng như sắt của chúng. Thành ra, tôi đành chào thua. Mỗi ngày đôi ba lượt chỉ còn biết hò hét, chọi đá cho chúng đi khuất mắt và tự nhủ: không giãn gân giãn cốt thì cũng học được chữ Nhẫn.
Với loại sống về đêm như possum thì gần đây nhà tôi đã có cách trị: chỉ cần đặt một thứ thiết bị có phát ra một âm thanh đúng với tần số mà lỗ tai chúng nó chịu không nổi (và nếu đến gần thì tôi cũng không chịu nổi!). Nhờ vậy mà đêm đến không còn phải nghe thấy tiếng tru tréo rợn tóc gáy của chúng và sáng ra không phải ngẩn ngơ tiếc xót cho luống rau hay những cây con bị ăn trọc lóc nữa.
Riêng cái giống chuyên đến vào giờ ngọ để ăn cắp trứng gà như goanna hay kỳ đà thì tôi đành phải làm thêm giờ phụ trội. Cứ xế trưa, sau khi các chị gà chị vịt đã làm xong phận sự, mình chịu khó đi lượm trứng là xong. Cái đám cư dân bò sát này có xuống đến nơi cũng đành phải trơ mỏ mà chém vè thôi.
Tưởng đã tìm ra cách đối phó với cái đám “mất dạy” này thì yên tâm mà vui thú điền viên. Nào ngờ gần đây tôi lại phải điên đầu vì một cư dân “không phải bản địa” là chồn. Nghe nói vì muốn săn bắn hoặc đa dạng hóa thú rừng cho nên những người di dân đầu tiên mới rước vào Úc đại lợi cái của nợ mà truyền thuyết và văn chương của bất cứ  nước nào cũng rủa sả thậm tệ là “cáo”, là gian manh, là quỷ quyệt và bao nhiêu hình dung từ xấu xa nhứt.
Tôi có một kinh nghiệm đau thương về cái giống ma mãnh này. Một buổi chiều nọ, tôi có việc phải ra khỏi nhà và khi về đến nhà thì trời đã nhá nhem tối. Linh tính báo cho tôi biết là có chuyện không ổn về lứa gà con vừa hơn một tháng tuổi. Khi đi đóng cửa chuồng, tôi mới thấy vài con chạy tứ tung. Kiểm soát lại, tôi thấy mất 12 con, 2 con bỏ xác tại trận, nghĩa là đã bị nguyên một họ nhà chồn đi càn quét và tha đi hết 10 con. Đề cao cảnh giác cho nên chiều nào cũng vậy, hễ mặt trời lặn là tôi phải đi đóng cửa chuồng gà ngay. Vậy mà thỉnh thoáng kiểm tra dân số, tôi vẫn thấy mất. Thì ra, chồn Úc coi bộ “thông minh” hơn chồn Việt nam nhiều: chúng nó không thèm đánh du kích ban đêm nữa, mà làm ăn ngay giữa thanh thiên bạch nhựt. Tôi đã đánh bẫy đến cả hai tuần lễ mà chẳng bắt được tên nào cả. Một số bạn Úc giải thích rằng chồn ở đây đã biến thành “hồ ly tinh” rồi. Chỉ cần ngửi được một chút hơi người là chúng nó biết có bẫy cho nên không dễ gì lừa được chúng.
Nhưng ở đời, chẳng ai học được hết những chữ “ngờ”. Do chồn cáo quỷ quyệt chuyên bắt gà bắt vịt, cho nên hễ cứ mất một con thì tôi đổ ngay xuống đầu con chồn là xong chuyện. Vậy mà cuối cùng, sau nhiều ngày rình rập theo dõi, tôi mới biết, ngoài chồn ra, còn có một thủ phạm mà mình chẳng bao giờ nghi ngờ cả. Đó là “cậu chó” của ông hàng xóm nhà tôi. Hồi giờ tôi cứ tưởng chó Tây được nuôi dưỡng đầy đủ và huấn luyện thuần thục để biết sống “hòa bình” với các giống thú khác. Vậy mà ngày nọ, nghe tiếng gà kêu thất thanh, kiểm soát thấy mất một con gà trắng, tôi mới mon men lần theo bìa rừng để may ra còn rượt kịp con chồn mắc dịch. Nhưng hỡi ơi, nhìn vào khe hở của hàng rào gỗ, tôi thấy “cậu chó” của người hàng xóm đang ngồi vặt lông và xơi tái con gà của tôi. Thì ra, mấy chị gà của tôi có lẽ vì chán cơm thèm phở cho nên mới lẻn qua mấy kẽ hở hàng rào để xâm nhập vào vườn của ông hàng xóm. Không ngờ, bị “cậu chó” phục kích cho nên có chị chạy không kịp. Bây giờ cháy nhà ra mặt chuột, thủ phạm bắt gà của tôi không chỉ là chồn, mà còn là “cậu chó” của ông hàng xóm nữa.
Chuyện này làm tôi nhớ lại lúc còn làm việc bên Phi luật Tân. Hồi đó, tuy phong trào nuôi gà “đi bộ hay băng rừng” chưa thịnh hành lắm, tôi cũng  có nuôi một ít gà mái đẻ và vịt xiêm. Tôi đã phải mất ăn mất ngủ vì gà vịt mới nở cứ bị sát tế mà không biết ai đã ra tay. Thoạt tiên, tôi nghi ngờ mấy cô cậu mèo hoang. Còn ai trồng khoai đất này nữa. Mèo bắt gà con vịt con là chuyện thường tình mà. Thế là tôi mua ngay một cây súng hơi về và hễ gặp mèo là tôi “phơ”. Giải quyết được cái đám mèo hoang, vừa bảo vệ an toàn cho gà con vịt con, vừa không còn mỗi đêm phải nghe những tiếng rên rỉ ai oán bên hông nhà khi chúng nó diễn trò “mèo chuột”, tôi tưởng đã xong chuyện. Nhưng lạ quá. Mèo không còn mà gà con vịt con vẫn cứ mất đều đều. Thì ra, tôi đã đổ oan cho lũ mèo. Thủ phạm chính là đàn chuột xây dựng sào huyệt ngay trong vườn nhà. Cứ đêm đến, họ nhà tý này xâm nhập vào chuồng gà và tha hồ kéo chân, moi ruột gà con và vịt con.
Ngẫm nghĩ về những sai lầm trong chuyện truy tìm thủ phạm giết gà vịt này, tôi nhận thấy rằng vì những khung suy nghĩ có sẵn, vì thành kiến hay vì nông nổi và thiếu suy xét, tôi cũng rất thường rơi vào cảnh “trông gà hóa cuốc” khi phán đoán về hành động và con người của tha nhân.
Tôi nhớ hồi giữa thập niên 1980 có xem cuốn phim Murphy’s Law do tài tử Charles Bronson thủ diễn. Ông tài tử có gương mặt lạnh như tiền này thủ vai Jack Murphy, một viên cảnh sát bị vợ bỏ để đi hành nghề vũ khỏa thân. Chán đời, Murphy chỉ còn biết tìm quên lãng trong men rượu. Nhưng họa vô đơn chí. Vợ ông bất thần bị giết chết và dĩ nhiên, khi bắt đầu điều tra cảnh sát bắt giữ ông như nghi phạm đầu tiên. Vào tù không bao lâu, Murphy đã vượt ngục. Cùng một lúc nhiều cảnh sát viên cũng bị thủ tiêu. Mối nghi ngờ của cảnh sát về tội ác của Murphy lại càng gia tăng. Murphy biết rõ mình bị một người nào đó “gài bẫy”. Nhưng phải mất bao nhiêu ngày tháng vừa trốn chạy vừa truy tìm, cuối cùng Murphy mới khám phá được người đã giết vợ ông và tìm cách hãm hại ông: đó là một người phụ nữ “vô danh” mà lúc mới gia nhập cảnh sát, ông đã bắt giữ. Y thị trả thù bằng cách gây ra bao nhiêu án mạng để cảnh sát nghi ngờ và bắt giữ Murphy.
Cuốn phim đầy những pha tréo cẳng ngỗng: người vô tội bị nghi ngờ, kẻ sát nhân lại là người không ai ngờ tới! Kẻ thù tưởng là người xa lạ, ai ngờ lại ở ngay trong nhà mình. Với An Dương Vương, nếu có kẻ thù cần đề phòng thì kẻ thù đó chỉ có thể là quân của Triệu Đà mà thôi. Làm sao ông có thể nghi ngờ người con gái ruột là nàng Mỵ Châu ngồi sau lưng ngựa mình, lại là người phản bội mình.
Có lẽ không nơi nào dễ xảy ra những phán đoán sai lầm cho bằng tòa án. Ngày nay, nhờ các cuộc xét nghiệm về DNA, biết bao nhiêu người vô tội bị giam tù hàng bao nhiêu năm mới được giải oan. Chuyện của bà Lindy Chamberlain ở Úc đại lợi này là một điển hình mới nhứt. Ngày 17 tháng 8 năm 1980, đứa con gái mới 2 tháng tuổi của bà bị chó dingo giết chết tại Uluru, lãnh thổ Bắc Úc. Nhưng vì không tìm được thi thể của đứa bé đã mất tích, cho nên mặc cho bà Chamberlain có bảo rằng con bà bị chó rừng ăn thịt, bà vẫn bị đưa ra tòa xét xử và bị kết án 3 năm tù. Khi bà vừa mãn hạn tù thì cũng là lúc các nhân viên điều tra mới tìm thấy một mảnh vải của chiếc áo mà đứa bé mặc lúc bị mất tích. Người ta mở lại cuộc điều tra và mới đây, nghĩa là 32 năm sau khi đứa bé mất tích, tòa mới nhìn nhận rằng nó đã bị chó dingo ăn thịt và danh dự mới thực sự được trả lại cho người mẹ.
Bị kết án khi không hề phạm tội ác và phải mất bao nhiêu năm trời thọ án mới được tuyên bố trắng án: chuyện như thế lại xảy ra quá nhiều trong hồ sơ các tòa án trên khắp thế giới. Không nói đến chuyện “giết lầm hơn là tha” như đã và đang xảy ra trong các chế độ cộng sản, chuyện sai lầm khi phán đoán về hành vi của người khác và buộc tội họ là chuyện thường không tránh khỏi trong sinh hoạt tố tụng. Điều này cho thấy tâm hồn và đời tư của con người vẫn mãi mãi là một bí ẩn mà chẳng có thước đo công lý nào có thể dò thấu.
Tôi thường nghĩ đến cái bí ẩn ấy mỗi khi nhìn vào điều mà khách quan người ta thường gọi là tội ác. Hãy thử nhìn lại vụ thảm sát tại Oslo, Na uy, vừa được tưởng niệm đúng một năm. Thoạt tiên, khi xảy ra vụ khủng bố, ai mà chẳng muốn chụp một cái mũ lên đầu mấy ông Hồi giáo quá khích cho nó...gọn chuyện. Thế rồi ai cũng phải sửng sốt khi biết được kẻ khủng bố không phải là một ông Hồi giáo quá khích nào đó, mà lại là một anh quá khích chống Hồi giáo. Có điều đáng suy nghĩ là cho tới nay, mỗi lần ra tòa, mặc dù các chuyên gia tâm lý cho rằng Anders Behring Breivik là một người bệnh hoạn, có tâm lý bất thường, anh vẫn khăng khăng nói rằng anh là một con người bình thường, hành động theo đòi hỏi của lý trí bình thường. Thật ra một con người có tâm lý bình thường và lành mạnh có thể chai lì trước tội ác như thế không?
Vụ thảm sát mới xảy ra tại Denver, tiểu bang Colorado, Hoa kỳ cũng gợi lên cho tôi những suy nghĩ như thế. Trước tòa, người đã nã súng bắn chết 12 người vô tội đang xem cuốn phim “Batman” (người dơi) trong một rạp hát, đã tỏ ra thản nhiên và vô cảm. Nhiều người đang chờ đợi một bản án tử hình cho James Eagan Holmes, người thanh niên 24 tuổi đã từng là một sinh viên y khoa xuất sắc. Tôi chia sẻ niềm đau của những người có thân nhân bị sát hại. Nhưng tôi vẫn cảm thấy thương hại kẻ sát nhân. Có lẽ anh cũng chỉ là nạn nhân của một xã hội luôn đề cao những anh hùng của bạo lực và chỉ muốn xử dụng bạo lực để giải quyết các khó khăn trong cuộc sống.
Sở dĩ tôi thấy mình cần phải luôn biết tỏ ra cảm thông với người khác là vì trước hết tôi biết mình rất dễ có những phán đoán lệch lạc, thiên vị, nông nổi về người khác. Kế đó, tôi luôn tự nhủ phải cảm thông với người khác bởi vì tâm hồn con người là một hố thẳm mà tôi không thể nào có thể dò thấu được. Tôi biết tôi đã là khó rồi, huống hồ hiểu được người khác.
Nhưng quan trọng hơn cả, tôi cảm thấy phải luôn cảm thông với người khác, bởi vì tôi cũng chia sẻ với họ nhiều mẫu số chung của kiếp người. Với tôi, “cảm thông” là từ ngữ dễ thương nhứt trong tiếng Việt. Nhưng tôi thích chữ “compassion” trong nhiều ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Latinh hơn. Nó nói lên cái thân phận bất toàn, yếu đuối và “đau khổ” chung của mọi người. “Cảm thông” là “cùng”  “đau khổ” với người khác vậy. Và dĩ nhiên, có “cùng đau khổ” với người khác, cùng qua cây cầu “đoạn trường” với người khác, con người mới cảm thấy dễ dàng tha thứ khi nhìn vào lỗi lầm của người khác và nhứt là khi bị người khác xúc phạm.
Cũng như con chồn, không phải người “xấu” nào cũng xấu và đáng ghét. Con chồn của nhà văn Antoine de Saint Exupery đã cho tôi một câu “nhớ đời”: “Có những thứ mắt trần không thấy được, mà phải nhìn bằng trái tim”.  Tôi cần một đôi mắt của “cảm thông”.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét