Chu Thập
24.7.15

Tôi chưa có đủ tư cách làm một nhà văn để
được Nguyễn Mộng Giác nhắc đến trong “Bạn
văn một thuở” của ông. Nhưng tôi không sợ phải mang cái mặc cảm của một người
“thấy sang bắc quàng làm họ” khi nhắc đến nhà văn lớn này. Bởi lẽ tôi quen ông
không như một nhà văn, mà trước tiên như một con người. Thực vậy, tôi gặp Nguyễn
Mộng Giác lần đầu tiên trong trại tỵ nạn Kuku, Nam Dương vào khoảng cuối năm
1981. Trước năm 1975, thỉnh thoảng tôi cũng có nghe nhắc đến tên ông và cũng biết
ông đã từng là tác giả của truyện dài “Đường một chiều”, được giải thưởng Văn
Bút của Việt nam Cộng hòa năm 1974. Nhưng trong trại tỵ nạn, dường như mọi người
đều vứt bỏ mọi thứ vỏ bọc hào nhoáng của mình để cho con người thật của mình được
hiện ra nguyên hình nguyên trạng. Và tôi đã gặp được nhà văn Nguyễn Mộng Giác với
tất cả con người thật của ông trong một tháng sống tại trại Kuku và hơn nửa năm
tại trại Galang. Luôn ngưỡng mộ các nhà văn lớn, tôi cứ tưởng trên đầu họ có một
thứ hào quang mà người thường không có. Nhưng khi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác,
tôi lại thấy ông không những bình thường như mọi người, mà còn tỏ ra khiêm tốn,
nhún nhường, nhã nhặn, nhân ái, thân thiện hơn rất nhiều người. Nếu một nhà văn
lớn có được bao phủ bởi hào quang thì đây mới thực sự là hào quang của Nguyễn Mộng
Giác. Trước mặt ông, ngồi gần ông bên ly cà phê, tôi chưa bao giờ cảm thấy bị
trấn áp, “khủng bố” như phải hầu chuyện với một số người có tên tuổi trên văn
đàn hay trong xã hội. Năm 1988, gặp lại ông trong một quán cà phê ở
Westminster, quận Cam, tôi thấy ông cũng vẫn “vậy”: vẫn với nụ cười kín đáo,
nhưng chân thật, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ như thể sợ phải làm phật lòng người
khác, vẫn khiêm tốn đến độ không bao giờ nói về mình. Không riêng tôi mà hầu
như bất cứ ai sau một lần gặp ông cũng đều có nhận xét như thế. “Với nụ cười hiền, thái độ từ tồn, tĩnh như một
dấu lặng, tôi bắt gặp nó ở ông, bất cứ nơi nào ông đến, ông đi, ông dừng lại...Tôi
không biết có phải vì bản tính không, mà mỗi lần ông đến dự các buổi họp mặt bạn
bè với chúng tôi, ông đều ít nói” (Trịnh Thanh Thủy, Ngựa đã ngã, Biển đã động,
tưởng niệm nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Việt luận 13/7/2012).
Quen nhau trong trại tỵ nạn không quá một
năm, gặp lại nhau bên Mỹ cũng không được nhiều lần, quan hệ giữa tôi và nhà văn
Nguyễn Mộng Giác chưa sâu để trở thành tình bạn. Nhưng trong cuộc sống, có những
người mình rất thường xuyên gặp gỡ nhưng chẳng tạo được cho mình một ấn tượng
nào. Trái lại, có những người, dù chỉ mới thoáng qua, đã để lại một nụ cười, một
ánh mắt hay ngay cả một sự thinh lặng khiến mình cứ nhớ mãi. Nhà văn Nguyễn Mộng
Giác là một con người như thế đối với tôi. Nếu văn là người thì quả thật tôi đọc
văn ông xuyên qua chính con người của ông.
Khi ông nằm xuống, tôi mới biết ông là một
Phật tử thuần thành với pháp danh “Thiện
Ngộ”. Ông đã đi tìm và đã gặp được Chân Như và Tuệ Giác. Với riêng tôi, gặp được ông quả thật cũng là
một “thiện ngộ”. Ông không thuyết pháp cho tôi bằng kinh điển Phật giáo, mà bằng
cả con người của ông. Nhìn ông trong những tấm hình mới nhứt, với khuôn mặt
tròn trịa, phúc hậu, hiền từ khác với nét khắc khổ trong trại tỵ nạn, tôi luôn
nghĩ đến “Bụt” hay “Bồ Tát”.
Ngày xưa, những đứa trẻ Công giáo như
tôi luôn được cha mẹ và các vị chức sắc trong Đạo dạy dỗ không được thờ lạy “Bụt,
thần, ma quỷ”. Trong sự hiểu biết non dại và óc tưởng tượng phong phú của tuổi
thơ, tôi đồng hóa “Bụt” với “thần” hay với “ma quỷ”. Và dĩ nhiên, do bị nhồi
nhét vào đầu óc những thứ kiến thức lệch lạc, không những tôi không dám ăn của
cúng trong chùa chiền, đình làng, mà lúc nào cũng chỉ nhìn thấy “bụt thần ma quỷ”
trong khói hương của các tôn giáo khác. Nhưng càng thêm tuổi đời, càng tập sống
khoan nhượng, tôi cảm thấy được “giác ngộ” đôi chút để hiểu biết hơn về “Bồ tát”
trong phật giáo. Tôi đặc biệt biết ơn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tác giả của tuyển tập
“Cành Mai Sân Trước”. Ông đã giải thích như sau: “Bồ tát là dịch từ Bodhisattva, có nghĩa là người đã giác ngộ, đã tỉnh
thức và đang giúp cho người khác cũng được giác ngộ, tỉnh thức như mình.
Đoàn
Trung Còn giải thích rõ hơn: Quán Tự Tại Bồ tát tức là Quan Thế Âm. Bodhisattva
phiên Hán là Bồ đề tát đỏa” (Bồ đề: giác ngộ trọn vẹn, Tát đỏa: chúng sanh),
nghĩa là người đã giác ngộ trọn vẹn rồi nhưng vẫn còn làm “chúng sanh”, chưa “lên”
địa vị Phật, hoặc đã lên địa vị Phật, nhưng vì lòng thệ nguyện mà vẫn còn ở
hàng chúng sanh để cứu độ chúng sanh (Đoàn Trung Còn, Tâm Kinh Bổ Khuyết, Kim
Cang Kinh)
Osho
nói: Thiền là đủ giải quyết các vấn đề của bạn nhưng còn thiếu lòng từ bi. “Từ
bi giữ một vị Phật còn là Bồ tát ngay trên đường biên”.
Vậy
đó, Bồ tát mới dễ thương làm sao! Bồ tát mới “người” làm sao, mới “trần gian”
làm sao (Ta là ai mà còn trần gian thế? Ta là ai, là ai, mà thương quá đời này!
TCS). Có tài liệu gọi Bồ tát là “Phật hữu tình”, có lẽ đúng. Chứ Phật mà vô
tình thì chán chết! Phật vô tình thì thành tượng, thành robot rồi. Lòng từ bi
giữ một vị Bồ tát mãi là Bồ tát, tuy đã tự thân là Phật, đã tự do, tự tại,
nhưng chính lòng thương “cõi người ta” làm cho họ nấn ná lại, giúp người, giúp
đời. Vậy chẳng thú vị, chẳng dễ thương sao?” (Bs Đỗ Hồng Ngọc, Cành Mai Sân
Trước, NXB Văn hóa thông tin, 2003, trg 201-202).
“Bồ
tát mới dễ thương, mới “người” làm sao”! Trong những ngày vừa qua, tôi thường
nghĩ về nhà văn Nguyễn Mộng Giác với hình ảnh của Bụt hay Bồ tát như thế. Dĩ
nhiên, ông là một nhà văn lớn. Ông là một bậc thày trong văn giới. Đã từng là
người đứng trên bục giảng, nhưng có lẽ ông không truyền đạt kiến thức cho bằng
cuộc sống và với ông, sống là cố gắng tìm kiếm và thể hiện “Chân Thiện Mỹ” bằng
những gì rất là “người” trong cuộc sống thường ngày của con người.
Tôi luôn quan niệm sống là không ngừng
lên đường, là ra đi, là “lữ hành”. Trong cuộc hành trình ấy, có nắng cháy, khô
cằn, sỏi đá nhưng cũng có vô số những bóng mát bên vệ đường. Những bóng mát ấy
chính là những vị “Bồ tát” hay “Bụt” bằng xương bằng thịt mà tôi gặp gỡ mỗi
ngày. Họ không phải là thiểu số mà là số đông. Đông đến độ ra ngõ là gặp. Hiếm
khi họ làm những điều vĩ đại hay phi thường cho tôi. Thường chỉ là một lời
chào, một cái gật đầu, nhứt là một nụ cười, một ánh mắt thân thiện. Tôi cảm thấy
cần những vị “Bồ tát” như thế hơn những “thần tượng”. Thần tượng vốn không có
thật, bởi vì trong đa số trường hợp, thần tượng là do con người dựng lên. Hôm
nay người ta đưa lên bệ thờ, ngày mai người ta lại kéo xuống. Tôi cần có “Bụt”
hơn “thần” nhứt là “thần” đứng trong cái chữ “thần tượng”. Tôi thích chiêm ngắm
“Bụt” hơn tôn thờ thần tượng.
Trong mục tạp ghi của báo Người Việt, Quỳnh
Giao có nói đến hiện tượng “Phát điên vì thần tượng”. Theo bà, hiện tượng này
chẳng có gì là mới mẻ. Ngay từ thế kỷ 19, người nhạc sĩ tài ba Franz Liszt của
Hung gia Lợi cũng đã từng tạo ra được một hiện tượng điên loạn như thế. Mỗi lần
người nhạc sĩ dương cầm này độc tấu thì thế nào cũng có màn khách mộ điệu, nhứt
là phụ nữ, nhào lên sân khấu ôm lấy ông, tranh nhau sờ cho được tóc của ông hoặc
ngay cả sà vào người ông mà tung cả xiêm y lên.
Mới đây, khi “thần tượng” choai choai
Justin Bieber của Gia nã đại đến Úc đại lợi trình diễn, người ta cũng nói đến một
hiện tượng tương tự. Có lẽ nắm bắt được lòng sùng mộ của khán thính giả, nghệ
sĩ trẻ này đã tung ra một Album với tựa đề “Believe” (tin tưởng). Động từ này
thường được dành để chỉ “niềm tin” trong tôn giáo. Chính vì thế mà “Believer”
chỉ “người tín đồ”. Trong cơn sốt “tự phát”, những người hâm mộ người ca sĩ trẻ
này đã tự nhận là “tín đồ” của cậu. Không có dịp và dĩ nhiên cũng chẳng muốn
công khai trở thành “tín đồ” của Bieber, tôi đã tò mò mở YouTube xem thử. Quả
đúng như Quỳnh Giao đã mô tả, những người ái mộ người ca sĩ trẻ này đã “thẫn thờ, gào thét, ngất xỉu hoặc bần thần”
khi nghe Bieber trình diễn.
Gần đây, ở Việt nam, các “tín đồ” của thần
tượng Jung Ji Hoon hay còn gọi là Bi Rain còn đi xa hơn nữa khi họ nhào lên sân
khấu không phải để bắt tay hay ôm lấy anh, mà để hôn lấy chiếc ghế anh đã ngồi
khi trình diễn. Báo Tin Mới trong nước số ra ngày 13 tháng 7 vừa qua, đưa tin:
“Trong con mắt của một bộ phận giới trẻ,
thần tượng biến thành thiên tài, được xem như thần thánh, Fan sẵn sàng hi sinh
luôn liêm sỉ và văn hóa của bản thân để thể hiện tình yêu với thần tượng. Hàng
loạt các bạn nữ đã hôn chiếc ghế mà ca sĩ Bi Rain ngồi là hiện tượng khiến nhiều
người cảm thấy kinh tởm. Những biểu hiện bệnh hoạn, quá khích, lệch lạc là hồi
chuông báo động cho toàn xã hội.”
Cũng theo tờ báo, “một Fan cuồng nữ đã tuyên bố trên diễn đàn: “Em sẵn sàng giết bố mẹ nếu
không cho em đi xem Suju (tức ban nhạc trẻ Super Junior của Nam Hàn) biểu diễn”.
Những dòng bình luận của Fan cùng hội cùng thuyền tiếp theo: “Khi cha mẹ trở
thành vật ngáng đường con cái đến với tình yêu đích thực của đời mình chỉ còn
cách là tiêu diệt”. “Gia đình là phù du, Suju là tất cả” là một tuyên ngôn gây
“Shock” đã được rất nhiều người hưởng ứng”.
Tôi không ngạc nhiên khi đọc những dòng
trên đây. Thời nào và ở đâu mà chẳng có hiện tượng điên loạn vì thần tượng.
Nhưng ở Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam ngày nay, dường như mức điên loạn đã
lên đến “đỉnh điểm”. Ở các nước, các tín đồ của các thần tượng có thể gào thét,
ngất xỉu, nhưng có lẽ người ta chưa bao giờ nghe nói đến những lời “thề độc”
như sẵn sàng giết cha mẹ hoặc từ bỏ gia đình mình như ở Việt nam.
Câu chuyện trong Kinh Thánh vẫn còn có ý
nghĩa. Trên đường tiến về Đất Hứa, người Do thái đã bỏ mặc nhà lãnh đạo Môi sen
trên núi để gom góp vòng vàng lại, đúc thành một con bò vàng và sắp mình thờ lạy
nó. Câu chuyện đã trở thành tiêu biểu của mọi thứ tôn thờ thần tượng trong lịch
sử nhân loại. Thần tượng, dù là thần tượng bằng xương bằng thịt, cũng vẫn là một
sản phẩm do con người tự tạo ra. Mặc cho các chuyên gia tâm lý có giải thích
như thế nào đi nữa, hiện tượng này vẫn nói lên sự trống rỗng trong tâm hồn con
người. Khi không còn nhận ra những giá trị đích thực đáng để đeo đuổi và sống
chết cho, người ta chỉ còn biết tìm cách lấp đầy tâm hồn bằng những giá trị và
thần tượng giả trá. Xã hội Việt nam là một điển hình. Nhiều người vẫn nói đến
cái “lỗ hổng đạo đức”, tức sự trống rỗng các giá trị đạo đức trong xã hội. Nếu
lớp trẻ ngày nay có cuồng loạn chạy theo thần tượng là bởi họ chẳng còn nhìn thấy
trong xã hội những giá trị làm nền tảng cho bất cứ một lý tưởng cao đẹp nào.
Tôi cũng thấy thật tội nghiệp cho các
“tín đồ” Việt nam của Bi Rain. Bởi vì họ đang sống trong một xã hội không những
có rất nhiều lỗ hổng đạo đức mà còn là một xã hội gần như thiếu hẳn hình bóng của
“Bụt” hay “Bồ tát”. Không hề nhìn thấy biển từ thưở lọt lòng, làm sao người ta
có thể hình dung ra biển? Cũng vậy, làm sao người ta có thể hiểu được thế nào
là sống có “ý nghĩa” khi không cảm được “ý nghĩa” từ môi trường và những người
chung quanh?
Tôi đã gặp được “Bụt” Nguyễn Mộng Giác.
Tôi cũng đã gặp được vô số những “Bụt” như thế trong cuộc sống hàng ngày. Tôi cần
có “Bụt” hơn thần tượng, bởi vì nhờ “Bụt” tôi lại tiếp tục thấy cuộc đời vẫn
mãi mãi còn “dễ thương”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét