29.1.16
Kể từ sau cuộc
khủng bố tại Hoa Kỳ ngày 11 tháng 9 năm 2001, cùng với Phong trào Hồi giáo cực
đoan Taliban, A Phú Hãn là một trong những nước Hồi giáo ở Á châu được thế giới nhắc đến nhiều nhất.
Nhưng có lẽ thế giới lại ít nghĩ đến thân phận của người tỵ nạn nước này.
Theo thống
kê năm 2015, dân số A Phú Hãn có khoảng 32 triệu người. Nhưng hiện nay đang có
khoảng 2.6 triệu người tỵ nạn A Phú Hãn sống tại hơn 70 quốc gia trên khắp thế
giới. Thảm kịch tỵ nạn của người A Phú Hãn bắt đầu vào cuối tháng 12 năm 1979.
A Phú Hãn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nhưng người dân nước này
vẫn luôn hài lòng với cuộc sống thôn dã truyền thống của họ. Rất ít khi vì cuộc
sống cơ cực hay để đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn mà người A Phú Hãn phải bỏ
nước ra đi. Nhưng cuối năm 1979, cuộc sống nghèo nàn nhưng êm ả ấy đã hoàn toàn
bị xáo trộn khi Liên Xô đem quân sang
xâm chiếm đất nước này. A Phú Hãn bỗng nhiên rơi vào vòng xoáy của cuộc chiến
tranh lạnh. Xe tăng Liên Xô ào ạt tràn vào các làng mạc, sát hại vô tội vạ
thương dân vô tội, phá hủy nhà cửa ruộng vườn , các phương tiện sinh sống của họ
và xô đẩy họ bỏ nước ra đi để tìm sự an toàn. Vì cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” giữa
hai khối Tự Do và Cộng Sản tại Á Phú Hãn trong suốt thập niên 1990, ngày càng
có có nhiều người dân nước này trốn chạy khỏi sự bạo động, bách hại, thanh lọc
chủng tộc và diệt chủng. Nhiều người chạy sang hai nước láng giềng Pakistan và
Iran. Có đến 95 phần trăm người tỵ nạn Á Phú Hãn hiện đang sống tại hai nước
này.
Tuy nhiên,
trong suốt 36 năm qua, lúc nào người tỵ nạn A Phú Hãn cũng mong được trở về quê
hương mỗi khi tình thế cho phép họ hy vọng có được hòa bình và công lý trên đất
nước họ. Chẳng hạn trong hai năm 1992 và 1993, sau khi chế độ cộng sản tại A
Phú Hãn sụp đổ, đã có hơn 2 triệu người từ Pakistan và Iran tự nguyện hồi
hương. Nhưng không bao lâu sau đó, khi cuộc nội chiến đã bùng nổ và nhận chìm A
Phú Hãn vào hỗn loạn trong suốt một thập niên, cuộc hồi hương của người tỵ nạn
đã bị đình hoãn.
Sau khi chế
độ Taliban cáo chung, được cộng đồng thế giới nâng đỡ, đã có trên 5.8 triệu người
tỵ nạn A Phú Hãn từ Pakistan và Iran trở về xứ sở. Đây là cuộc hồi hương của
người tỵ nạn lớn nhất trong lịch sử của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc. Mặc dù
người tỵ nạn A Phú Hãn tự nguyện hồi hương và phải đối phó với cuộc sống đầy
khó khăn trên quê hương họ, chính phủ Iran và Pakistan vẫn cứ rêu rao rằng người
tỵ nạn là một gánh nặng kinh tế tạo ra cuộc khủng hoảng nhân đạo hoặc có thể là
cái ổ để chiêu mộ khủng bố. Dán lên họ những khẩu hiệu như thế là quên rằng họ
đã đóng góp rất nhiều cho những xã hội đã đón tiếp họ cũng như thế giới nói
chung.
Dù sao, người
tỵ nạn và tầm trú cũng là những thường dân có một phẩm giá và nhân quyền nhưng
vì cuộc sống bình thường bất thần thay đổi khiến họ phải bỏ nước ra đi để tìm sự
an toàn ở những nơi khác. Cha đẻ của thuyết tương đối Albert Einstein (1879-1955)
và văn hào Pháp Victor Hugo(1802-1885) chẳng hạn là những nhà trí thức vĩ đại của
thời đại họ, nhưng bất thần trở thành những người tỵ nạn sau khi trốn chạy cuộc
bách hại trên quê hương mình. Họ đã có những đóng góp quý báu nhất cho quê
hương thứ hai của họ.
Hàng triệu
người tỵ nạn A Phú Hãn tại Pakistan và Iran là những tài sản vô giá cho nền
kinh tế của hai nước này. Nhiều người đã và đang là những nhân công đắc lực mặc
dù chỉ được trả bằng một đồng lương thấp hơn nhiều so với người dân địa phương
hoặc phải làm những công việc mà người dân địa phương không muốn đụng đến ngón
tay. Một số khác thi thố những tài năng đặc biệt. Chẳng hạn, chỉ có họ mới dệt
được những tấm thảm đặc thù của A Phú Hãn, nhưng được các hiệu buôn địa phương
mua lại với giá rẻ mạt, cho đóng vào nhãn hiệu mới và trục lợi tối đa bằng cách
xuất cảng sang các nước phát triển.
Ngoài ra,
hàng tháng không ít người tỵ nạn A Phú Hãn nhận được từ thân nhân của họ tại
các nước phát triển như Âu Châu, Bắc Mỹ, Úc Đại Lợi và các quốc gia vùng Vịnh từ
800 đến 1000 Mỹ kim. Họ dùng số tiền này để thuê nhà hoặc trả cho các dịch vụ
khác và như vậy đóng góp đáng kể vào kinh tế của các nước tiếp nhận họ. Hơn nữa,
cũng phải kể đến không ít người tỵ nạn A Phú Hãn giàu có hiện đang làm ăn tại
Pakistan và các nước vùng Vịnh: họ đang góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh
tế của các nước này. Kể từ năm 2001, một số lớn doanh nhân A Phá Hãn đã hồi
hương và đầu tư vào những lãnh vực chính như viễn thông, xây dựng, vận tải, tiếp
tế. Đây là những lãnh vực đã góp phần gia tăng mậu dịch giữa A Phú Hãn và các
nước láng giềng như Pakistan và Iran.
Nếu người tỵ
nạn A Phú Hãn đã có những đóng góp đáng kể như thế vào kinh tế thì xem họ chỉ
như một gánh nặng kinh tế quả là một bất công. Còn bảo rằng các trại tỵ nạn A
Phú Hãn là nơi chiêu mộ khủng bố cũng chỉ là một cái cớ để tránh né khỏi phải hợp
tác vào cuộc chiến chống khủng bố mà thôi. Người tỵ nạn A Phú Hãn thiết yếu là
nạn nhân của bạo động và khủng bố. Chối bỏ tư cách tỵ nạn của họ rõ ràng là một
vi phạm quyền của họ như được Công Ước Genève năm 1951 nhìn nhận. Các nước ký
tên vào Công Ước này và các hiệp ước quốc tế khác về nhân quyền đều có nghĩa vụ
phải tôn trọng quyền tỵ nạn và bảo vệ những quyền này bằng cách bảo vệ họ chống
lại bạo động, bách hại và tình trạng thiếu an ninh khiến họ không thể trở về
quê hương xứ sở của họ.
Mặc dù trong
14 năm qua đã có 5.8 triệu người tỵ nạn
A Phú Hãn hồi hương từ Pakistan, Iran và
nhiều nước khác, phần lớn vẫn còn do dự chưa muốn trở về xứ sở của mình. Hazrat
Shah là một người thợ dệt thảm hiện đang sống tại Pakistan. Khi được một viên
chức Liên Hiệp Quốc hỏi liệu có muốn hồi hương không, ông trả lời: “Không có
nơi nào bằng quê hương của mình cả. Nhưng bạn sẽ đi về đâu nếu nhà của bạn đã
cháy rụi?” Người thợ dệt thảm này còn nói thêm: “Hôm nay đã có hai ngôi mộ vừa
mới được được để chôn cất hai người anh em của tôi. Họ vừa mới bị giết chết
trong một vụ nổ mìn tại A Phú Hãn”. Hai người này đã trở về nhà tại Gereshk
trong tỉnh Helmand, miền Nam A Phú Hãn. Họ trở về để tìm công ăn việc làm và dọn
đường cho cả gia đình họ từ Pakistan trở về.
Sự sụp đổ của
chế độ Taliban cũng như những hứa hẹn bảo đảm an ninh và tái thiết A Phú Hãn đã
khiến cho hàng triệu người tỵ nạn lạc quan. Tuy nhiên, cho tới nay chương trình
tái thiết A Phú Hãn vẫn chưa hình thành. Nhiều người tỵ nạn hồi hương đã phải
lâm cảnh bơ vơ lạc lõng trên chính quê hương của họ. Nhiều người vẫn tiếp tục
kiếp sống tỵ nạn của họ, nhất là tại các thành phố lớn. Hai vấn đề lớn mà người
tỵ nạn hồi hương phải đối mặt là giành lại đất đai đã bị chiếm hữu và có được
nguồn nước uống cũng như canh tác. Một
trong những quan ngại lớn của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc và cộng đồng thế giới
là nhiều người tỵ nạn hồi hương không được trợ giúp để tái hội nhập vào xứ sở của
họ. Bao lâu những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tại A Phú Hãn chưa được
cải thiện, thì để người tỵ nạn hồi hương hoặc trục xuất những người tầm trú là
điều bất nhân. Bao lâu người tỵ nạn A Phú Hãn vẫn còn tiếp tục sống tại các nước
tiếp nhận họ, thì cộng đồng thế giới nên chia sẻ gánh nặng với các nước này
trong việc trợ giúp người tỵ nạn để họ có thể học được những kỹ năng cần thiết
hầu đóng góp cho các nước này cũng như chuẩn bị hành trang để trở về quê hương
của mình.
Ngoài ra,
các nước phát triển cũng cần đẩy mạnh các chương trình định cư bằng cách tiếp
nhận nhiều hơn những người tỵ nạn A Phú Hãn từ Iran, Pakistan và Ấn Độ. Dĩ
nhiên, việc cấp phát qui chế tỵ nạn và định cư người A Phú Hãn tại các nước
phát triển cũng phải được tiến hành song song với công tác giúp tái thiết và
phát triển A Phú Hãn. Một khi đã thích nghi và có được cuộc sống an toàn tại
quê hương mới, chính những người tỵ nạn A Phú Hãn mới có thể trợ giúp cho thân
nhân bà con của họ ở quê nhà cũng như đang tỵ nạn tại Iran, Pakistan và Ấn Độ.
Về lâu về
dài, cũng như hầu hết những người tỵ nạn khác trên khắp thế giới trong đó điển
hình là người Việt Nam, một khi đã được định cư tại các nước phát triển, người
A Phú Hãn cũng sẽ giàu có và đạt được trình độ học vấn cao. Đây chính là những
thứ vốn quý họ sẽ dùng để đầu tư trở lại tại đất nước của mình. Bằng chứng
là có nhiều người giàu có và chuyên viên
A Phú Hãn, trong đó có đương kim Tổng thống Ashraf Ghani và nhiều nhân vật
khác, đã từng là những người tỵ nạn: họ
đã hồi hương và có những đóng góp lớn lao trong việc tái thiết đất nước kể từ
năm 2002.
Cách đây gần
2.500 năm, kịch tác gia Hy Lạp Euripides đã viết: “Trên trái đất này không có nỗi
buồn nào lớn cho bằng mất quê hương của mình”. Thật vậy, đối với hầu hết người
tỵ nạn A Phú Hãn như người thợ dệt thảm Hazrat Shah trên đây, không có một mảnh
đất xa lạ nào có thể thay thế cho quê
hương của họ và họ chỉ có thể trở về quê hương khi cảm thấy an toàn mà thôi. Dĩ
nhiên, giải pháp thực sự lâu bền cho vấn
đề tỵ nạn A Phú Hãn là tự nguyện hồi hương, nhưng chỉ với điều kiện là tình trạng
an ninh tại nước này được bảo đảm. Do đó, Pakistan, Iran và các nước Tây Phương
là nơi hiện đang có đông người tầm trú A Phú Hãn sinh sống, có thể và nên hợp
tác để trước tiên bảo đảm an ninh cho nước này. Tình trạng an ninh bền vững và
thịnh vượng tại đây đương nhiên sẽ khuyến khích người tỵ nạn A Phú Hãn tự nguyện
hồi hương, chứ không cần phải có chính sách cưỡng bách hồi hương của các nước
đã đón tiếp họ.
(Bài này được
viết dựa theo nội dung bài phân tích của tác giả Ashraf Haidari, được đăng trên
báo The Diplomat số ra ngày 21 tháng Giêng vừa qua. Đã từng là một người tỵ nạn,
ông Haidari hiện đang đứng đầu Phân bộ Chính sách và Chiến lược của Bộ ngoại
giao A Phú Hãn. Ông đã từng phục vụ trong sứ bộ ngoại giao của A Phú Hãn tại Ấn
Độ. Ngoài ra, trước đó ông cũng đã từng làm cố vấn cho thứ trưởng an ninh quốc
gia và tham vụ ngoại giao tại Hoa Kỳ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét