Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016

Thất thập cổ lai hy

Chu Thập
19.2.16



Tết vừa qua tôi chính thức bước vào tuổi 70. Ở những giai đoạn quan trọng của cuộc đời, tôi thường mang mấy câu nói của người xưa ra để ngẫm nghĩ và kiểm chứng. Chẳng hạn như khi bước vào tuổi 30, tôi không thể không nghĩ đến câu “tam thập như lập”. Tôi nhận thấy câu nói này khá đúng với trường hợp của tôi: tôi đã có cuộc sống tự lập và nhứt là đã biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Ở tuổi 50, tôi lại mang câu “ngũ thập tri thiên mệnh” ra tụng niệm. Thật tình cho tới giới phút này tôi cũng vẫn chưa hiểu được thế nào là “thiên mệnh”. Chỉ biết rằng bước vào tuổi đó, sau không biết bao nhiêu lăn lóc trầy trụa trong cuộc đời, tôi bỗng ngộ ra một điều là cần phải biết mình nhiều hơn để cảm thông với người khác. Tôi bèn diễn nôm câu “ngũ thập tri thiên mệnh” thành “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Kể từ đó tôi xác tín một điều: cái lẽ khôn cao cả nhứt trong cuộc đời chính là biết sống cảm thông với người khác. Cốt lõi của bất cứ nền đạo đức hay tôn giáo nào cũng đều qui về điều đó cả.
Nay bước vào tuổi 70, tôi lại nhớ đến câu “thất thập cổ lai hy”. Tết vừa qua, tôi thấy vui hơn mọi năm. Vui vì được Trời cho sống thêm một năm. Vui vì ít nhứt nếu có nằm xuống, các thiệp cáo phó và phân ưu cũng sẽ dành cho tôi hai chữ “hưởng thọ”, dù chỉ là tiểu thọ.
Vui nhưng cũng thấy “tức cười” .
Tức cười khi nghĩ đến tác giả của câu nói để đời trên đây là nhà thơ Đỗ Phủ (712-770) đời nhà Đường bên Tàu. Tức cười là bởi hễ bước vào tuổi 70 thì dường như người Việt Nam nào cũng đều hãnh diện ngâm lên câu: “Thật thập cổ lai hy”. Hai câu thơ “Tửu trái tầm thường hà hữu xứ, Nhân sinh thất thập cổ lai hi” mà thi sĩ Tản Đà (1889-1939) đã dịch thành: “Nợ tiền uống rượu đâu chả thế. Sống bẩy mươi năm dễ mấy người”, có lẽ đã được nhà thơ Đỗ Phủ viết ra trong một cơn say lúy túy. Thật ra, cách đây trên 1200 năm, nếu có bảo rằng “sống bẩy mươi năm dễ mấy người” thì cũng chẳng ngoa chút nào. Vào thời đó, sống đến tuổi 70 quả là hiếm, nhứt là với những người nát rượu như thi sĩ Đỗ Phủ.
Nói gì ở thời thi sĩ Đỗ Phủ. Ngay như ở Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc, tuổi thọ trung bình của người Việt cũng chỉ ngấp nghé trên dưới 30 tuổi. Sống đến 70 được xem là “hi hữu” là phải. Ngay cả thời ông già tôi, sống đến 70 tuổi cũng đủ để được nâng lên hàng “tiên chỉ” rồi.
Nhưng đến lượt tôi mà cũng ưỡn ngực thốt lên “thất thập cổ lai hy” có lẽ chỉ làm cho thiên hạ cười mà thôi. “Hi hữu” “hiếm hoi” hay “quý hiếm” thế nào được khi tôi thấy “các cụ” ở tuổi tôi hiện đang “chạy đầy đường”. Thế hệ “baby boomers”, tức sinh sau Đệ Nhị Thế chiến ở các nước Tây Phương xem ra vẫn còn trong hàng ngũ những người sung sức nhứt trong xã hội và ngay cả trong sinh hoạt chính trị. Cứ nhìn vào các cụ Hillary Clinton, Donald Trump và nhứt là cụ Bernie Sanders: trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc, hiện các cụ đang bỏ xa rất nhiều ứng cử viên trẻ. Đó là nhìn vào người Tây Phương. Người Á Đông, nhứt là người Việt Nam ở hải ngoại, 70 tuổi đã ai chịu mình già đâu. Chỉ cần tân trang lại một chút, nhiều “cụ” vẫn còn về Việt Nam để gậm cỏ non kia mà.
Đúng là gừng càng già càng cay. Không những thế, luật tiến hóa lại cho thấy tuổi thọ của con người ngày càng được kéo dài thêm. Nhân loại hiện đang sống trong một thời đại phi thường. Nhờ những tiến bộ khoa học, đặc biệt là trong y khoa, tuổi thọ con người được kéo dài đến độ chỉ cách đây một thế hệ người ta cho đó là chuyện khoa học viễn tưởng. Một người Mỹ chào đời vào ngày hôm nay sẽ thọ hơn một người sinh năm 1925 hơn 20 tuổi. Và lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, con số những người trên 60 tuổi đã vượt qua con số những người dưới 15 tuổi ( x. Tạp chí Time 23/2 và 2/3/2015). Ở trang bìa của tạp chí Time trong một số ra năm vừa qua, người ta thấy hình của một  trẻ sơ sinh với lời giới thiệu: “đứa bé này có thể sẽ sống đến 142 tuổi”. Biết đâu vài chục năm nữa, khi mà y khoa đã tiến đến cái mức có thể “tái sinh” bất cứ bộ phận nào trong con người, chuyện trường sinh bất tử có lẽ sẽ chẳng còn là một giấc mơ huyễn hoặc nữa.
Nhưng dù muốn hay không tuổi già cũng vẫn là điều không thể chối cãi được cho dù nhiều người không muốn chấp nhận thực tế ấy. Nhà văn Pháp André Maurois (1885-1967) đã chia sẻ: “Kỳ lạ thay cái tuổi già! Không ai nghĩ là mình sẽ già! Họa chăng là kẻ khác có thể già còn mình thì không. Cho đến một hôm, gặp lại người bạn cũ của 30 năm về trước, thấy trên mặt bạn mình những nét già nua tuổi tác, mới chợt giật mình nhưng cũng nghĩ đó là chuyện của bạn. Già đến với ta một cách từ từ, khó mà nhận biết” (trích trong Đỗ Hồng Ngọc, Cành Mai Sân Trước, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2003, trg 90).
Không phải đợi đến tuổi “thất thập cổ lai hy” tôi mới thấy mình đã già. Tôi biết mình đã già mỗi khi soi gương, trông lên đầu thấy muối nhiều hơn tiêu, nhìn vào mặt thấy đã có nhiều dấu chân chim xung quanh khóe mắt và nhứt là khi chạy bộ mỗi buổi sáng không còn sải bước được nữa. Nhưng với riêng tôi có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhứt của tuổi già chính là thấy mình đã bị bỏ lại đàng sau khá xa mỗi khi đụng đến các phương tiện kỹ thuật tân tiến. Chỉ cần cầm lên chiếc điện thoại di động là tôi đã thấy tối tăm mặt mày rồi. Nói gì đến Iphone hay Ipad...Chỉ cần nhìn một đứa bé chưa đầy 3 tuổi biết “dọc” một cách nhuần nhuyễn chiếc Ipad là tôi đã thấy mình thuộc một hành tinh khác rồi.
Không biết trước kia, khi nhìn vào một ít kiến thức thường thức tôi đã học được trong sách vở của thời trung học, cha mẹ tôi có cảm thấy mình lạc hậu không. Còn ngày nay, mỗi lần nhìn thấy tuổi trẻ sử dụng bất cứ phương tiện kỹ thuật tân tiến nào tôi cũng đều thấy chóng mặt. Tuổi già dễ bị hoa mắt và nặng tai đã đành, mà đầu óc cũng mụ mị cho nên chẳng theo kịp đà tiến của khoa học và kỹ thuật. Mỗi lần cảm thấy bị bỏ lại đàng sau như thế tôi lại càng xác tín hơn về một chân lý: nhân loại ngày càng tiến bộ!
Trước nhà thiên văn kiêm vật lý học người Ý Galileo Galilei (1564-1642), có ai dám bước ra khỏi cái khung của Kinh Thánh để bảo rằng trái đất quay xung quanh mặt trời. Một thế kỷ sau, nhà vật lý kiêm toán học người Anh Isaac Newton cũng đã đảo lộn cách suy nghĩ của thế giới lúc bấy giờ khi khám phá ra Luật Hấp Dẫn của vạn vật. Thế giới lại càng bị chao đảo hơn nữa khi nhà địa chất học kiêm động vật học Charles Darwin (1809-1882) công bố Thuyết Tiến hóa. Nhưng sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật lại càng nhanh hơn nữa kể từ khi nhà bác học Albert Einstein (1879-1955) đưa ra Thuyết Tương Đối. Cách đây hơn một thế kỷ, khi nhà văn Pháp Jules Verne (1828-1905) viết những cuốn sách như “Hành trình vào trung tâm Trái Đất”  hay “Hai mươi ngàn dặm dưới đáy biển”...người ta cho đó là chuyện khoa học viễn tưởng chỉ có trong óc tưởng tượng. Nay chuyện con người đặt chân lên mặt trăng, dùng các thiết bị để thám hiểm các hành tinh trong Thái Dương Hệ hoặc ngay cả đang tìm đường lên một số hành tinh...đã trở thành hiện thực. Những tiến bộ trong lãnh vực điện tử và tin học lại càng khủng khiếp hơn. Cách đây 30 năm, có ai ngờ rằng chỉ cần một thiết bị nhỏ và đơn giản là chiếc điện thoại cầm tay, con người có thể liên lạc với người khác ở bất cứ chân trời góc biển nào cũng như có thể theo dõi bất cứ biến cố nào đang diễn ra trên thế giới. Trước kia, mấy ai nghĩ đến chuyện mang thai mướn, sản sinh theo phương pháp vô tính hay thay đổi tính di truyền. Nay trong y khoa, nếu không có sự giám sát của đạo đức, thì xem ra “phép lạ” nào cũng đều có thể xảy ra. Trước kia, mấy ai nghĩ đến chuyện hôn nhân đồng tính. Nay luật pháp tại nhiều quốc gia đã nhìn nhận một cuộc “hôn nhân” như thế.
Tiến bộ trong khoa học và kỹ thuật đã đành, nhân loại cũng đã làm một bước quá dài trong nhận thức và ý thức về các giá trị nhân bản. Thế giới đã trở thành một ngôi làng nhỏ trong đó nhân loại ngày càng ý thức hơn về tình liên đới. Dĩ nhiên, trên thế giới vẫn còn những tên khùng và những quốc gia “côn đồ” chuyên xé lẻ để quậy phá ở nơi này nơi nọ. Nhưng nhìn chung, kể từ khi chiến tranh lạnh đã kết thúc, cộng đồng thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn để luôn tìm cách giải quyết các cuộc xung đột dựa trên những nguyên tắc nhân bản và các giá trị đạo đức hơn là vũ lực. Có lẽ chưa bao giờ ý thức về phẩm giá con người và các quyền căn bản lên cao cho bằng ngày nay.
Nhìn vào những tiến bộ ấy của thế giới, cho dù thế giới vẫn chưa có được một bộ mặt hoàn hảo đi nữa, tôi vẫn cảm thấy lạc quan. Và dĩ nhiên cùng với sự lạc quan, tôi cũng luôn cố gắng nuôi dưỡng tâm tình cảm thông, nhứt là khi đứng trước những bước tiến của nhân loại mà vì chạy theo không kịp tôi không thể thấu hiểu tường tận. Khi tôi còn nhỏ, mỗi lần chứng kiến những hành động xé rào, lối sống ra ngoài “khuôn phép” hay những suy nghĩ táo bạo của giới trẻ, các cụ thường lắc đầu than thở: “ngày xưa chúng tôi không như thế”. Các cụ cứ nhân danh truyền thống để bác bỏ và ngay cả lên án lối sống và cách suy nghĩ của giới trẻ. Ngày nay, thỉnh thoảng tôi cũng nghe những người ở tuổi tôi lập lại một luận điệu như thế. Cứ như thể giới trẻ ngày nay đã ra “hư đốn” và xấu xa hơn các thế hệ cha ông ngày xưa. Kỳ thực, tôi nhận thấy giới trẻ ngày nay hơn tôi rất nhiều và trong rất nhiều phương diện. Họ giàu kiến thức hơn tôi là chuyện không thể chối cãi được. Có thể họ không còn sống theo khuôn phép của “đạo đức”, của lễ giáo, của truyền thống như tôi trước kia. Riêng về phương diện tôn giáo, có lẽ họ cũng chẳng còn “siêng năng” đến nhà thờ hoặc ngay cả cũng chẳng còn đặt chân đến nhà thờ như tôi trước kia. Nhưng về lòng vị tha và quảng đại, về tình liên đới, về công bình, thành thật và tôn trọng luật pháp..., nói chung, về những giá trị nhân bản họ bỏ xa tôi.
Bước vào tuổi già, tôi nhận thấy sự hiện diện của người trẻ xung quanh mình luôn mang lại niềm hy vọng, sự phấn khởi, tinh thần lạc quan và nhứt là sự cảm thông. Ngày nay, sẽ là lạc điệu nếu tôi vẫn cứ hãnh diện ngâm câu “thất thập cổ lai hy”. Nhưng lại còn lạc điệu hơn nếu tôi cứ nại đến tuổi già để đi thụt lùi trước đà tiến của nhân loại. Một tuổi già đẹp có lẽ không hệ tại ở số tuổi cho bằng ở thái độ chấp nhận, đồng hành, cởi mở và nhứt là cảm thông. Tôi tin rằng chỉ có một thái độ như thế mới làm cho thân tâm của tôi được an lạc trong tuổi già.










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét