Chu Thập
21.8.12
“Cậu Chó” là tên tôi đặt cho con chó “mất
dậy” bên nhà ông hàng xóm của tôi. Thật ra, đây chẳng phải là một danh xưng do
tôi chế ra. Tôi đã “đạo” được từ ít nhứt một quyển tiểu thuyết và một truyện ngắn.
![]() |
tranh VI PHÁT |
Theo câu chuyện, “Cụ Hồ Đại Thần sanh được hàng chục người con, người nào cũng làm lớn. Kẻ
Tri Huyện, người Tri Phủ, kẻ Bác sĩ, người Tham Tá. Thế mà không hiểu có phải
vì Cụ Ông chơi bời mà sanh ra hay là vì nghiệp chướng mấy đời làm Quan ác đức,
kẻ oan bị ghép tội nặng vì không có tiền hối lộ, kẻ có tội vì nhiều tiền cho
Quan nên được ung dung ngoài vòng pháp luật, tha hồ bóc lột dân nghèo áp bức
người cô thế, nên Trời giáng họa cho Cụ lớn thấy rõ những điều nghiệp chướng mà
Cụ và gia đình đã gây ra”.
Câu chuyện kể về người con thứ bảy của
Quan Hồ Nhứt Phẩm. Cậu Bảy khi vừa sanh ra mặt mũi không những không giống anh
chị trong nhà mà còn phủ đầy lông tơ. Cậu rất khỏe mạnh, thường không khóc mà
chỉ tru lên như chó tru. Cuối cùng thì cậu chẳng khác nào một con chó Berger Đức
với lông là đầy người và di chuyển bằng bốn chân. Vì xấu hổ, ông bà cụ Hồ đành phải
xây một khu riêng để “biệt giam” cậu Bảy.
Chuyện đáng nói là ngoài nhu cầu ăn uống,
Cậu Bảy lại có những đòi hỏi sinh lý mạnh hơn người thường. Cho nên để thỏa mãn
nhu cầu này, ông bà Cụ Hồ phải rước về không biết bao nhiêu cô gái để cho cậu
thỏa mãn tình dục...
Trong lời mở đầu, tác giả Trần Đức Lai
viết: “Từ trước đến nay, trong họ nào
cũng thế, có vài đời làm Quan thì họ đó thế nào cũng nẩy sinh ra một người con
hoặc cháu tật nguyền, điên khùng hoặc dở dang mặt người tánh thú vật hay có
dáng điệu thú vật”. Rồi ông khẳng định: “Đó là nghiệp chướng ác đức bị báo oán nhỡn tiền”.
Nhiều người thường nại đến quả báo để giải
thích về một số bệnh tật hay bất hạnh trong cuộc sống. Đời cha ăn mặn đời con
khát nước là chuyện thường xảy ra. Tuy nhiên, ngày nay, khách quan hơn, khoa học
gần như không đổ lỗi cho ai cả. Có khi cha chẳng ăn mặn chút nào cả, mà con vẫn
cứ khát nước. Như trường hợp những người bẩm sinh mắc chứng mà khoa học gọi là
“hội chứng Ambras” hay bệnh “hypertrichosis”. Kể từ thời Trung Cổ đến nay, người
ta chỉ ghi nhận được 50 trường hợp như thế. Mình mẩy của những người này mọc đầy
lông lá như thú vật. Gần đây nhứt có cô bé 11 tuổi người Thái lan tên là
Supatra Sasuphan: gương mặt cô đầy lông lá, trông chẳng khác nào một con chó
Berger. Nhưng cô bé này không những sống vui vẻ hồn nhiên, mà còn tự hào về
gương mặt đặc biệt của mình.
Đọc lại chuyện “Cậu Chó” của ông Trần Đức
Lai, tôi thấy thương hại cho Cậu Bảy. Gia đình ông bà Cụ Hồ Nhứt Phẩm thương
con, nhưng lại đối xử với cậu chẳng khác nào một con thú: một con thú được cho
thỏa mãn mọi nhu cầu, kể cả nhu cầu sinh lý mà không màng đến luân thường đạo
lý của con người. Câu chuyện gợi lên cho tôi những ngược đời trong cuộc sống:
thú vật được lên làm người, người xuống hàng thú vật!
Không hiểu tại sao mỗi khi nhìn thấy con
chó của người hàng xóm, tôi lại nghĩ đến câu chuyện trên đây của nhà văn Trần Đức
Lai. Ngoài ra, khi đặt tên “Cậu Chó” cho con chó của người hàng xóm, tôi cũng
liên tưởng đến truyện ngắn “ Tấm Lòng Cậu
Chó” của nhà văn Tràm Cà Mau, tác giả của tập truyện “Triết Lý Củ Khoai”, mặc
dầu ông xác nhận rằng ông chưa được thưởng thức truyện “Cậu Chó” của tác giả Trần
Đức Lai.
Truyện ngắn “Tấm Lòng Cậu Chó” của Tràm
Cà Mau kể lại số phận may mắn của một con chó nhỏ có hình dáng “hệt một con nai
tý hon”, nhưng lại có khuôn mặt chồn. Không biết vì lý do nào đó, nó bị chủ sa
thải và rơi vào nhà của một người không mấy ưa chó mèo, nhưng vì nể vợ nên cho
nó tạm trú. Nhưng dần dà, từ dửng dưng đến thương hại và sau đó là thương mến,
ông chủ nhà đã giang rộng tay để chính thức đón nhận nó làm một thành viên của
gia đình. Con chó được dành cho một chỗ đặc biệt nhứt trong gia đình. Ngoài ra,
con chó còn được dẫn sang một nhà hàng xóm Mỹ để “ở rể” một thời gian. Ban đầu
người chủ gọi con chó bằng “nó” với thái độ miệt thị, xem thường. Nhưng khi bị
nó chinh phục, thì ông lại gọi nó là “em”. Đến khi cảm tài, đức của nó, thì ông
gọi nó là “cậu chó”. Sau đó, ông thấy học được của nó nhiều điều hay, lạ, bổ
ích, hiệu nghiệm, làm cho gia đình hạnh phúc hơn, làm cho mọi người chung quanh
thương mến nhau hơn, thì bèn tôn sư, gọi nó bằng “ông thày” và “ngài”.
Một hôm đi chợ về, người vợ thấy khói um
tùm ngoài vườn, còn chồng mình thì “nhảy
nhót quanh một cái thùng sắt lửa nghi ngút, như dáng múa của người da đỏ đang
hành lễ. Theo sau là cậu chó vẫy đuôi chạy loăng quăng.” Thỉnh thoảng ông
quay lại vái cậu chó mấy cái và gọi cậu là ngài. Người vợ nhìn vào thùng sắt
đang bốc cháy và nhận ra đó là mấy chục cuốn sách triết lý của chồng. Nào là Khổng
Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử, Platon, Descartes, Hegel, Jean Paul Sartre và cả
mấy chục cuốn sách thuộc loại nhức đầu khác nữa.
Thấy người vợ thắc mắc, người chồng mới
giải thích: “Mấy chục cuốn sách triết học
Đông Tây kim cổ này, chẳng ích lợi thiết thực chi cho hạnh phúc gia đình, cho
cuộc sống nhân sinh bằng cái triết lý tình thương chân thật của ngài chó đây.
Ngài là bực tuyệt khôn, đại trí. Loài người thường kiêu hãnh tưởng mình khôn
ngoan nhất, nhưng biết đâu loài chó nó cười cho thối đầu. Khôn hơn sao phải lao
động cực khổ để cung phụng, thương yêu, phục vụ kẻ ăn rồi nằm không? Loài chó
chỉ ban cho loài người chút tình thương thôi, rồi phè ra mà sung sướng một đời.
Thế thì ai khôn hơn ai?”
Người
“chồng xá thêm cậu chó mấy cái cung kính lắm. Bao nhiêu sách triết lý đều thiêu
thành tro bụi, tàn bay lả tả”.
Tôi không biết nhà văn Tràm Cà Mau có viết
những dòng trên đây với giọng điệu mỉa mai không. Riêng tôi, mỗi khi nhìn “Cậu
Chó” của người hàng xóm, tôi luôn thấy có điều gì đó “không ổn” trong cuộc sống
của “cậu”. Thực tình mà nói, tôi không “ưa” cậu. Cậu không có dáng điệu “nai
tơ” và dễ thương của “cậu chó” trong “tấm lòng cậu chó” của nhà văn Tràm Cà
Mau. Cậu cao lớn như giống Berger Đức, nhưng có cái tai cúp xuống và cái bụng
thon của giống Danois. Thấy cậu nhìn lừ lừ thì cũng đủ sợ rồi, chớ đừng nói tới
chuyện cậu nhào tới tấn công.
Tôi vẫn chưa nguôi giận vì tội cậu xơi
tái một con gà mái đẻ và một con gà con của tôi. Ngoài ra, chuyện cậu cứ chõ mõm
sang nhà tôi mà sủa bất cứ lúc nào thì tôi không tha được. Cứ như mình là kẻ
gian không bằng. Đêm xuống, ở một nơi yên ắng đến độ có thể nghe tiếng côn
trùng rù rì như khu tôi đang sống, tiếng sủa của cậu làm cho tôi khó chịu vô
cùng, bởi vì nó cứ làm cho mình nhớ lại giai đoạn mấy ông du kích Việt cộng đêm
đêm bò về làng để sát hại dân lành và nhứt là thời kỳ vượt biên, khi mình trốn
chui trốn nhủi mà mấy cậu chó cứ sủa inh ỏi.
Giận “cậu chó” thì giận, nhưng tôi vẫn
thấy thương hại cậu. Bị giam một mình trong cái vườn sau nhà, dù cho cái vườn
có rộng thoáng đến đâu, làm sao cậu không cảm thấy “cô đơn”. Tôi hiểu được nỗi
cô đơn ấy của cậu chó. Có lúc, tôi thấy cậu cố gắng đưa cái mõm vào kẽ hở của
hàng rào, nhìn “lén” sang chuồng gia cầm của tôi. Như người xem phim “hành động”,
cậu nhảy nhót theo những “diễn biến” của đám gà vịt. Nhứt là khi cậu “theo dõi”
chuyện cặp vịt nhà tôi đang làm nghĩa vụ truyền giống, mặt cậu trông đờ đẫn. Thấy
tôi, cậu lại sủa oang lên như để phân bua rằng cậu đang rất cô đơn, cậu cần có
đời sống “bầy đàn”, cậu muốn sang chơi với mấy anh chị gà vịt nhà tôi.
Năm thì mười họa, ông bà chủ, vốn là một
cặp vợ chồng trẻ đi làm suốt ngày, mới đưa cậu lên chiếc xe Ute và chở đi một
vòng. Những lúc đó, tôi thấy mặt cậu hí hửng, miệng sủa inh ỏi. Ngoài những
giây phút đó ra, cậu bị buộc phải làm một ẩn sĩ bất đắc dĩ, lủi thủi một mình,
chẳng có ai để mà trò chuyện hay than thở. So với cậu, tôi thấy mấy con chó cỏ ở
nhà quê tôi sống kiếp chó đầy đủ hơn: ban đêm lo canh giữ nhà cho chủ, ban ngày
tha hồ đi rong chơi từ đầu trên xuống xóm dưới, bè bạn không thiếu, “quan hệ xã
hội” rộng rãi và chuyện tình ái cũng rất bình thường. Dù cho cuối cùng chẳng mấy
con được hưởng cái cảnh nhắm mắt “xuôi chân” vào lúc tuổi già, chó nhà quê có lẽ
cũng mãn nguyện vì đã vui hưởng trọn kiếp chó.
Cậu chó của ông hàng xóm của tôi không
có cái may mắn được sống trong nhà, được người chủ dắt đi dạo mỗi ngày hay ngay
cả được người chủ “hạ mình” xuống mà hốt phân cho. Nhưng liệu những cô cậu chó
có được cái may mắn ấy có thực sự “hài lòng” với cuộc sống đó không? Hình ảnh của
cái giây tròng vào cổ, đi đâu cũng không được tự do, lúc nào cũng bị ông bà chủ
lôi kéo, khiến tôi nghĩ rằng những cô cậu chó “cưng” này cũng chẳng cảm thấy
sung sướng lắm.
Trong khi ngày xưa Cậu Bảy của Trần Đức
Lai mang tiếng là con nhà quan nhưng bị coi và phải sống như một con thú thì
ngày nay lại có nhiều con thú cưng được hưởng những đặc quyền đặc lợi mà rất nhiều
con người không dám mơ tới: từ “cơm bưng nước rót”, xe hơi nhà lầu đến được ở
nhà có máy lạnh 24/24 như một số đại gia ở Việt Nam nhập chó Alaska về đến chuyện
được mua bảo hiểm y tế, thừa hưởng những tài sản kếch sù và khi chết thì được
chôn trong một nghĩa trang riêng. Liệu những con thú “may mắn” này có thật sự
sung sướng không? Con người hay thú vật, ai mà chẳng thích tự do, được ăn được
sống theo ý muốn. Dù được đủ thứ, nhưng từ động vật ăn “thịt sống” bị biến
thành động vật ăn “thịt hộp”, từ động vật 4 chân biến thành động vật không
“chân” trong cảnh cá chậu chim lồng như thế, thì sung sướng cái nỗi gì? Nhứt là
khi mấy cô cậu chó lại bị giải phẫu để cướp đi cái chức năng truyền giống và bắt
phải làm “hoạn quan, hoạn bà”, thì sống như thế không thể nào gọi là sống trọn
kiếp chó được.
Ngày nay, dường như ngày càng có nhiều
người hăng hái tranh đấu cho “quyền của súc vật”. Lại cũng là chuyện ngược đời.
Trong khi những quyền căn bản nhứt của con người tại không biết bao nhiêu nước
trên thế giới vẫn còn bị chối bỏ, chà đạp, trong khi quyền tối thượng nhứt là
quyền được sống của những người vừa bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ bị khước từ
một cách không xót thương thì lại có những người rỗi việc lấy việc tranh đấu
cho quyền súc vật làm ưu tiên hàng đầu cho cuộc sống.
Tựu trung, tôi nghĩ rằng điều bị con người
lạm dụng nhứt vẫn là hai chữ “yêu thương”. “Yêu thương” súc vật mà giam giữ nó
như một thứ “nô lệ” trong nhà, không cho nó sống hết kiếp thú vật của nó theo
cách thức của nó, như thế có phải thực sự là “yêu thương” không? Tôi nghĩ chỉ
có trong những sở thú “tự do” như tại một số nước bên Phi châu thì may ra thú vật
mới thực sự hưởng đầy đủ “thú quyền” của chúng.
Nghĩ xa một chút, trong quan hệ giữa người
với người, người ta cũng thường tô điểm cho hành động của mình bằng hai chữ “yêu
thương”. Kỳ thực, nếu không được thực thi một cách vô vị lợi, nếu không làm vì
lợi ích và ý muốn của người nhận, thì mọi hành động bác ái cũng chỉ là những việc
làm ích kỷ mà thôi. Tôi vẫn thường lấy nhận xét mỉa mai của văn sĩ Pháp La
Rochefoucauld hồi thế kỷ 17 để tâm niệm và tự vấn lương tâm: “Tất cả những dòng sông bác ái đều chảy vào
biển cả của ích kỷ”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét