Chu Thập
14.2.12

Sinh ra và lớn lên ở một nơi khỉ ho cò
gáy như tôi, phải đợi cho đến những ngày cuối năm Âm Lịch mới thấy có chợ hoa. Dĩ
nhiên, năm nào tôi cũng chỉ thấy một vài loại hoa đặc trưng của vùng nhiệt đới
như hoa mai, vạn thọ, cúc...Thời trung học, đọc chuyện “Gánh hàng hoa”, tác phẩm
viết chung của hai nhà văn Khái Hưng và Nhất Linh nổi tiếng của Tự Lực Văn
Đoàn, tôi thấy bán hoa vẫn còn là một cái nghề lam lũ: gia đình ở nhà quê tự trồng
lấy hoa và ngày ngày gánh đi bán rong, chứ không có lấy một cái sạp tử tế hay
được vào trường theo học một khóa cắm hoa có bài bản nào cả.
Cha mẹ tôi là những người thích trồng
hoa. Nhưng mỗi người có mục đích riêng của mình. Ngoài cái hàng rào dâm bụt đỏ,
vài chậu hoa giấy, hoa vạn thọ hay hoa móng tay, hoa mười giờ...mẹ tôi thích trồng
hoa hồng. Tôi không tin là mẹ tôi trồng hoa vì mục đích thẩm mỹ. Bà chăm sóc mấy
bụi hoa hồng là để mỗi buổi sáng khi pha trà hái lấy vài cánh hoa cho vào cái ấm
tích. Cho tới ngày nay, mỗi lần uống trà, mũi tôi vẫn còn ngửi được cái hương vị
khác thường của trà pha với hoa hồng.
Mẹ tôi không trồng hoa để ngắm. Bà nhìn
hoa dưới khía cạnh thực dụng. Bà chẳng cần biết đến câu ca dao trữ tình “trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn
cà hái nụ tầm xuân” gì cả. Trong vườn có mấy bụi mía mây, loại mía có màu
vàng, mềm và ngọt như đường phèn. Mẹ tôi thường róc sạch vỏ, cắt ra từng miếng
vuông nhỏ, cho vào cái thẫu và ướp với hoa buởi tươi trong vườn. Ngày nay, đang
có triệu chứng của bệnh tiểu đường cho nên tôi kiêng cữ tối đa mọi thứ đồ ngọt.
Nhưng giả như có được thứ mía mây đó, ướp với hoa bưởi như mẹ tôi vẫn làm, chắc
chắn tôi sẽ không từ.
Riêng cha tôi cũng trồng hoa theo sở
thích của ông. Nhưng cha tôi lại chỉ trồng độc mỗi hoa mai. Tết nhứt, trong nhà
có mai đã đành, mà cha tôi cũng bán được vài chậu kiếm tiền tiêu Tết. Tựu trung,
khi trồng hoa, cha mẹ tôi nhắm đến cái lợi hơn là cái đẹp. Chính vì vậy mà trên
bàn thờ trong nhà, mẹ tôi chỉ cắm hoa giấy hay hoa giả. Thỉnh thoảng, bà cũng
mua một ít hoa huệ trắng để dâng cúng cho nhà thờ. Nhưng tuyệt nhiên, tôi chẳng
bao giờ thấy cha mẹ hay các anh các chị tôi tặng hoa cho ai cả. Thời đó, chưa
có ngày Valentine, mà các anh các chị tôi cũng còn thuộc cái thế hệ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” cho nên hẹn
hò hay hoa hòe hoa sói là chuyện thần tiên chỉ có trong sách vở.
Không có ngày Valentine, Lễ của Tình
nhân, nhưng bù lại cha mẹ tôi và những người sống ở thôn quê lại có vô số ngày
của “tình thương”. Với họ, sống là chia sẻ và trao tặng cho nhau. Mà đã trao tặng
thì trao tặng quanh năm ngày tháng, chớ không chỉ đợi cho đến một ngày lễ đặc
biệt nào đó để gởi một bó hoa hay một món hàng làm sẵn. Hơn nữa, đã trao tặng thì người ta lựa điều
mình trân quý nhứt để trao tặng. Có khi một quà tặng được chuẩn bị cả năm. Bước
vào tháng Giêng, người ta đã bắt đầu nghĩ đến người sẽ được nhận quà và chuyện
chuẩn bị những món quà để trao tặng trong năm. Lúc nhỏ, tôi thấy ông cha nhà thờ
là người sướng nhứt, bởi vì hễ có “của ngon vật lạ” thì lại dành cho ông.
Mà không riêng gì nhà lãnh đạo tinh thần
trong xóm giáo, những người được cha mẹ tôi và những người ở thôn quê “thương”
cũng đều được dành cho những món quà mà họ chăm sóc, nâng niu, nuôi dưỡng rất
lâu. Từ hoa trái còn xanh trên cành đến gia cầm mới nhổ giò đã được “chỉ định”
sẽ thuộc về phần ai. Cha mẹ tôi thường lựa những thứ tốt nhứt để làm quà. Món
quà được trao tặng là kết tinh của chăm sóc, của mồ hôi, nước mắt, của tình
thương được gói ghém trong đó.
Ngày nay, ở nơi tha phương, tôi mới hiểu
được giá trị của những món quà mà cha mẹ tôi thường tặng cho những người thân
quen. Tôi không phải là một thành viên của Đảng Xanh. Nhưng về trồng trọt và
chăn nuôi, lúc nào tôi cũng nghĩ đến hai chữ thời thượng hiện nay là “sustainable” mà tôi thích dịch là “hợp với
thiên nhiên”, nghĩa là không thúc ép, không vội vàng mà trái lại tuân theo các
định luật và tuần hành của thiên nhiên. Một cách cụ thể, chẳng hạn, để có trứng
ăn, tôi nuôi vài chị gà mái đẻ chớ không mua trứng gà công nghiệp trong siêu thị.
Mấy chị gà của tôi không chỉ được “đi bộ”, mà còn chạy nhảy, rong chơi trong
khu rừng gần nhà. Tôi tin rằng nhờ được sống thoải mái giữa thiên nhiên, không
bị “thúc ép” hay “trầm cảm” cho nên trứng của các chị gà mái của tôi hẳn phải “lành
mạnh”. Thỉnh thoảng tôi gởi tặng bạn bè vài cái trứng. Của ít nhưng lòng thì chắc
chắn phải nhiều, bởi vì nó gói trọn sự chăm sóc, thương yêu mà tôi dành cho mấy
chị gà mái cũng như những tưởng nghĩ đến bạn bè.
Ngoài trứng gà ra, có khi tôi cũng gởi tặng
bạn bè vài con vịt xiêm để đánh chén. Ai cũng khen thịt vịt tôi nuôi thơm ngon,
ít béo hơn vịt nuôi thúc trong các nông trại. Chẳng biết bạn bè tôi có “ngửi”
được những giọt “mồ hôi” và “công lao” của tôi trong mấy miếng thịt vịt không.
Từ lúc chị vịt mái chuyển bụng lót ổ, nằm ấp, cho đến lúc những con vịt con nở
ra, tôi tốn không biết bao nhiêu thời giờ và công sức. Hơn tháng trời phải ngày
đêm canh giữ vì cái đám kỳ đà và goanna từ trên rừng có thể đột nhập vào chuồng
bất cứ lúc nào. Đã có lần vịt mẹ phải “ác chiến” với chúng đến “đổ máu”. Tối đến
tôi lại phải ấp ủ đám vịt con để không bị lũ chuột kéo chân, khoét bụng. Sau đó
còn phải thêm mấy tháng chăm sóc nữa thì mới có thể “làm quà”.
Riêng hoa trái trong vườn thì khỏi nói.
Tôi chăm sóc như nâng trứng, như hứng hoa. Tặng cho bạn bè một ít rau quả là tặng
cả tấm lòng quý mến được nuôi dưỡng bằng sự chăm chút, quan tâm, săn sóc đối với
thiên nhiên.
Tựu trung, trong quan hệ giữa người với
người, tôi luôn tâm niệm câu nói: “Một
quà tặng không có người tặng là một quà tặng trơ trụi” (a gift without the
giver is a bare gift). Trao tặng là trao một phần của chính mình. Trao tặng là
gởi gắm tâm tình, sự tưởng nghĩ, mối quan tâm của chính mình.
Người ta thường kể một giai thoại đầy ý
nghĩa về thi sĩ người Áo Rainer Maria Rilke. Mỗi buổi chiều, ông có thói quen
thả bộ qua các ngã phố gần nơi ông ở. Ngày nào, ông cũng gặp một người đàn bà ngồi
ăn xin bên vệ đường. Khách qua lại thường bố thí cho bà những đồng xu nhỏ.
Nhưng người hành khất chưa một lần để lộ một cử chỉ biết ơn nào.
Ngày nọ, thi sĩ Rilke cùng với người bạn
gái đi bách bộ qua những con đường quen thuộc ấy. Người bạn gái của ông ngạc
nhiên vô cùng, bởi vì mặc cho người đàn bà khốn khổ có chìa tay van xin, nhà
thơ cũng không buồn thí cho bà một đồng tiền lẻ nào. Đọc được thắc mắc của người
bạn gái, thi sĩ Rilke mới giải thích như sau: “Nếu chúng ta có trao tặng cho bà ta, thì hãy trao tặng vào trái tim
hơn là lòng bàn tay của bà.”
Vài ngày sau, thi sĩ Rilke cũng đi qua
những con đường ấy cùng với người bạn gái. Đến một cửa hàng bán hoa, ông dừng lại
mua một cành hoa hồng. Người bạn gái của ông nghĩ ngay rằng đây là cành hoa mà
thi sĩ sẽ dành cho mình. Nhưng, một lần nữa, cô ngạc nhiên đến sửng sốt: thay
vì trao cành hoa cho cô, ông đã đến với người hành khất và với tất cả trân trọng,
đặt nhẹ vào tay bà. Đôi mắt gần như lúc nào cũng bất động của người đàn bà hành
khất bỗng sáng lên. Bà đứng thẳng dậy, chộp lấy bàn tay của người thi sĩ và hôn
lấy hôn để như để tỏ lòng biết ơn. Bà áp cành hoa vào ngực rồi vội vã rời bỏ chỗ
ngồi quen thuộc ấy để đi đâu không ai biết.
Một tuần lễ sau, người đàn bà hành khất
trở lại chỗ cũ. Thi sĩ Rainer Maria Rilke giải thích với người bạn gái của ông
như sau: “Trong nguyên một tuần lễ qua,
người đàn bà này sống bằng chính cành hoa hồng ấy. Bà cần một chút tình thương
mến hơn là vài đồng xu bố thí.” (Lẽ Sống, Ban Việt ngữ Chân Lý Á Châu,
Manila, Phi luật tân)
Xét cho cùng, con người ta ai cũng cần
tình thương hơn tiền bạc. Con người có thể miệt mài chạy theo tiền của. Nhưng
đàng sau tiền của vẫn là thứ mà tiền của không thể mang lại được.
Báo The Sydney Morning Herald, trong số
ra cuối tuần qua, có tường thuật về những biển lận của một người phụ nữ rất hào
phóng. Chỉ là một kế toán viên âm thầm tại Castle Hill, nhưng mỗi lần bà Rajina
Subramaniam bước vào một cửa hàng sang trọng nào ở Sydney, thì bà lại tỏa sáng
như một ngôi sao. Các nhân viên của mọi cửa hàng xem người khách hàng 42 tuổi
này như một người bạn và tiếp đãi bà như một bà hoàng.
Tổng cộng, bà hiện có 600 món đồ trang sức
sang trọng, trên 200 sản phẩm của hãng Chanel, một hầm rượu Champagne trị giá
hàng trăm ngàn Úc kim. Nhưng đáng chú ý hơn cả là những ngôi nhà trị giá đến 18
triệu Úc kim tại Bondi, Kirribili...Có những ngôi nhà chưa từng được sử dụng và
vô số những hộp nữ trang chưa từng được mở ra.
Theo báo The Sydney Morning Herald, đây
là vụ biển lận lớn nhứt trong lịch sử Úc đại lợi mà thủ phạm là một phụ nữ.
Bên ngoài, bà Subramaniam sống một cuộc
sống bình thường với chồng trong một ngôi nhà khiêm tốn tại Castle Hill. Nhưng
các tài liệu của tòa án cho thấy bên ngoài cái dáng vẻ lịch sự và hào phòng ấy
là một người phụ nữ có tâm lý bị xáo trộn vì đã từng bị ông nội và chú lạm dụng
tình dục lúc còn nhỏ. Chính vì bị lạm dụng như thế mà bà luôn cảm thấy cần có
tình thương của người khác. Và vì muốn mua chuộc tình bạn bằng mọi giá, bà đã tặng
vô số quà tặng cho người khác. Có người nhận được một món quà trị giá 240 ngàn
Úc kim. Có người còn nhận được cả 1 triệu 3 trăm ngàn Úc kim để mua một ngôi
nhà.
Tình yêu không phải là thứ có thể mua
bán, đổi chác bằng tiền bạc. Tình yêu cũng chẳng phải là món đồ trang sức để chỉ
được mang vào người mỗi năm một lần hay một cánh hoa để chỉ được trao tặng
trong ngày Valentine. Tiếc thay, ngày nay dù có hoa có quà có đủ thứ vật chất “hỗ
trợ” tôi lại thấy nhiều bạn bè tỏ ra “ngao ngán” với tình yêu, tình vợ chồng. Cha
mẹ tôi không hề biết đến tặng hoa tặng quà. Khi kết hôn cũng chưa hẳn vì yêu, nhưng
tình yêu mà ông bà dành cho nhau lại tăng theo thời gian. Tôi vẫn nhớ hình ảnh
hai ông bà, khi đã có một bầy cháu chắt mà ra đường luôn tay trong tay thắm thiết
vào cái bối cảnh khắt khe của thập niên 1960 ở làng quê. Hai Vị đã tìm ra bí
quyết trong tình yêu. Bởi vì, nói đến tình yêu là nói đến những ưu ái, trao
ban, quan tâm, săn sóc, hy sinh, nhẫn nhục và nhứt là chiều chuộng nhau từng
ngày.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét