Chu Thập
Tết 2010
Cuộc cách mạng của
Internet đã giúp tôi tiết giảm được một lượng lớn những cánh thiệp đầu năm. Nhưng
vốn ghét những “thông điệp” chung gởi cho hàng loạt địa chỉ email, nên dịp năm
mới tôi thường dành nhiều thì giờ hơn để trải dài “tâm sự”, để thăm hỏi và tri
ân từng bạn bè và người thân. Dù vậy,
ngoài lời thăm hỏi chân tình, lúc nào tôi cũng phải kèm theo công thức quen thuộc
thường thấy trong các cánh thiệp đầu năm như “cầu chúc một năm mới khang an và hạnh phúc”.Thật ra, với công thức ấy,
tôi không chỉ cầu mong an bình và hạnh phúc cho người khác, mà còn để tự nhắc nhở về niềm
hạnh phúc riêng tư mà mình phải không ngừng tìm kiếm.
Có nhiều quyết
tâm để làm trong năm mới, nhưng tôi nghĩ, tất cả đều qui về một quyết tâm là phải
sống hạnh phúc.
Nhưng bởi hạnh
phúc là một điều khó định nghĩa hay đúng hơn là một nghệ thuật cần học hỏi và
trau dồi liên tục, cho nên tôi thấy mình cần có những bậc thày để được hướng dẫn.
Một trong những bậc thày mà tôi thường tìm đến để học hỏi về nghệ thuật sống hạnh
phúc là Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng hiện đang được cả
thế giới ngưỡng mộ về sự khôn ngoan và nhân đức. Do đó, đầu năm nay, tôi đọc lại
những lời khuyên dạy của ngài trong cuốn sách có tựa đề “Ethics for the New Millennium” (Đạo lý cho thiên niên kỷ mới). Trong
chương một của cuốn sách, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng đưa ra nhận xét như
sau: “Nghèo hay giàu, học thức hay không,
bất luận thuộc sắc tộc nào, nam nữ, theo tôn giáo này hay tôn giáo khác...chúng
ta chỉ muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Mỗi một hành động có ý thức của chúng
ta có thể xem như lời giải đáp cho một câu hỏi lớn mà tất cả mọi người đều phải
đương đầu là: “Làm sao tôi mới được hạnh phúc?”
Quả thật, cả cuộc
sống con người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Đối với nhiều người, tiền
của và tiện nghi vật chất là điều kiện mang lại hạnh phúc. Người Việt nam chúng
ta đã chẳng nói: “có tiền mua tiên cũng
được” sao? Nhìn chung, con người ở đâu và thời nào cũng đều đứng ở núi này
nhìn sang núi nọ và chạy theo hạnh phúc như một chiếc bóng mà chúng ta cho là
đang ẩn nắp đàng sau của cải vật chất hoặc cái đuôi dài của nó là quyền lực và
danh vọng.
Có dịp đi lại
nhiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra ghi nhận như sau: “Ở khắp mọi nơi, bằng những phương tiện có thể tưởng tượng ra được, người
ta nỗ lực để cải thiện cuộc sống. Điều lạ lùng là, tôi có cảm tưởng rằng những
người sống trong các quốc gia phát triển vật chất, với trọn cả nền kỹ nghệ của
họ, lại ít thỏa mãn, ít hạnh phúc và trong một chừng mực nào đó, lại còn đau khổ
hơn những kẻ sống trong các quốc gia chậm tiến nhứt. Thật vậy, nếu so sánh người
giàu với người nghèo, chúng ta thường thấy rằng những người không có gì cả, thật
ra lại ít lo lắng hơn, mặc dù họ dễ bị truyền lây bệnh hoạn và đau đớn trong thể
xác…Điều thường thấy với một mức độ cao và rất phổ biến trong quần chúng của
các nước phát triển là các chứng bệnh lo lắng, mất quân bình, ẩn ức, bất định
và căng thẳng”
Theo báo cáo của Viện nghiên cứu về chứng trầm cảm
tại quốc gia giàu mạnh nhứt thế giới là Hoa kỳ, có khoảng từ 75 đến 90 phần
trăm bệnh nhân đến gặp bác sĩ, đều than phiền về những chứng bệnh về tâm lý hơn
là thể lý.
Đức Đạt Lai Lạt
Ma hẳn đã biểu đồng tình với thống kê trên đây khi kể lại kinh nghiệm trong một
chuyến viếng thăm một quốc gia Tây Phương như sau: “Tôi là khách của một gia đình giàu có, sống trong một ngôi biệt thự rộng
rãi khang trang. Tất cả mọi người đều duyên dáng và lịch sự. Các người hầu phục
vụ cho từng nhu cầu của họ và tôi bắt đầu nghĩ, có thể đây là bằng chứng khẳng
định rằng giàu có là một nguồn hạnh phúc. Các chủ nhân đều có vẻ tự tin thoải mái.
Nhưng khi nhìn vào phòng tắm, qua một cánh cửa hé mở, tôi lại thấy một dãy toàn
là thuốc an thần và thuốc ngủ. Tôi bị buộc phải nhớ đến cái hố thâm sâu giữa bề
ngoài và thực tế nội tâm”
Đầu năm, đọc lại
những dòng trên đây của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi càng xác tín rằng hạnh phúc tùy
thuộc ở cái “tâm” của con người hơn là những điều kiện vật chất bên ngoài. Hẳn
trong ý nghĩa đó mà cụ Nguyễn Du của chúng ta đã phải thốt lên: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Tôi rất tâm đắc
với câu chuyện được kể về nhà hiền triết Esope của Hy lạp thời cổ. Ngày kia,
ông đến ngồi bên cổng thành Athènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua, dừng lại
hỏi ông: “Xin ông cho biết dân tình Athènes như thế nào?” Nhà hiền triết liền hỏi
lại: “Xin ông cho biết ông từ đâu đến và dân tình ở đó như thế nào?” Người
khách lạ nhíu mày than phiền: “Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người
láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày”. Nghe thế, nhà hiền triết thản nhiên trả
lời: “Tôi rất lấy làm tiếc để báo cho ông biết rằng rồi ra ông cũng sẽ thấy dân
thành Athènes của tôi còn tệ hơn thế nữa”.
Ngày hôm sau, một
du khách khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi tương tự: “Dân thành Athènes
như thế nào?” Du khách cho biết mình cũng đến từ Argos. Ông nói rằng Argos là
quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải từ giã để ra đi. Dân ở đó là những người
rất tử tế và dễ thương.
Lần này, nhà hiền
triết Esope lại nói về dân thành Athenes của mình như sau: “Này ông bạn đáng mến,
tôi rất vui mừng báo cho ông biết rằng ông sẽ thấy dân thành Athènes của tôi
cũng tử tế và dễ thương như thế”.
Cũng một con người
đó, nhưng có người lại thấy dễ thương, có người lại thấy đáng ghét. Cũng một
hoàn cảnh đó, có người phản ứng hòa nhã, có người phản ứng đốp chát. Cũng trong
cùng một cảnh vật, có người thấy vui, có kẻ lại kêu buồn chán. “Hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi buồn. Ô hay,
chẳng hiểu vì sao, chẳng hiểu vì sao, chẳng hiểu vì sao, tôi buồn” là vậy. Quả
thật, khi cái tâm không bình an thì dù có sống trong tiện nghi vật chất và ngay
cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, con người cũng sẽ chẳng bao giờ cảm thấy
hạnh phúc.
Hiểu theo một
cách nào đó, những gì thể hiện ra bên ngoài thường diễn tả trạng thái của nội
tâm và ngược lại. Trong lúc lái xe, tôi thích dùng thì giờ để quan sát những
tài xế khác, như một cách tìm hiểu tâm của họ. Trong khi một tài xế có thể thản
nhiên trước những khiêu khích hay cách lái ẩu của người khác thì với một tài xế
khác, chỉ cần bị xe khác vượt mặt hay bóp kèn, cuộc “tranh hùng” có thể lập tức
xảy ra. Người có tâm bình an tuy bực mình nhưng không chấp nê vì họ biết hậu quả
sẽ ra sao. Chuyện chỉ vì những “tranh chấp trên đường lộ” mà đưa đến vong mạng
là chuyện cơm bữa trong cái đời sống mà chúng ta gọi là “văn minh” này. Nhứt là
ở Việt Nam, nơi mà “hạnh phúc” luôn đi kèm với tên nước thì khỏi nói. Nếu người
ta hạnh phúc thì tại sao lúc nào cũng lái xe theo cung cách chụp giựt, gây hấn,
sống chết mặc bay như vậy?
Cái tâm bình an,
trước hết, theo thiển ý của tôi, phải là một cái tâm không chất chứa hận thù,
ghen ghét, đố kỵ. Tôi không ngạc nhiên tại sao một người như đồ tể Mao Trạch
Đông, người đã sát tế trên 30 triệu người đồng bào ruột thịt của mình trên bàn
thờ xã hội chủ nghĩa, đã bị chứng mất ngủ kinh niên. Trong cuốn hồi ký có tựa đề
“Cuộc đời bí mật của Mao Trạch Đông”, người đã từng làm bác sĩ riêng của ông
trong hơn 20 năm là Lý Phục Hy tiết lộ rằng Mao Trạch Đông mất ngủ liên tục, lấy
ngày làm đêm và phải dùng đến thuốc ngủ mới có thể ngủ li bì trong hai ngày liền.
Người không thua
kém Mao Trạch Đông bao nhiêu trong việc tàn sát đồng bào ruột thịt của mình là
Stalin cũng suốt một đời sống trong nghi kỵ đối với mọi người. Một người suốt đời
gieo rắc hận thù làm sao có thể có được cái tâm bình an?
Đọc khẩu hiệu “Độc
lập, Tự do, Hạnh phúc” luôn được thêm vào tên nước “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt nam”, người ta chỉ có thể phì cười mà thôi, bởi vì hạnh phúc của con người
đâu có tùy thuộc vào một ý thức hệ, nhứt là một ý thức hệ có chủ trương đấu
tranh giai cấp, khích động hận thù và nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và những “thế lực
thù địch”. Biến cố mới xảy ra gần đây tại giáo xứ Đồng Chiêm, Hà nội không thể
không khiến cho người ta phải nêu lên câu hỏi: liệu những kẻ hung hãn xúc phạm
đến tình cảm tôn giáo của người khác khi đập phá Thánh Giá và nhứt là hành hung
người dân lành một cách tàn bạo dã man có thể cảm thấy hạnh phúc không? Có lẽ họ
quên mất câu nói thời danh của ông tổ của họ: “Chỉ có súc vật mới quay mặt làm ngơ trước nỗi khổ của người đồng loại để
chăm sóc cho bộ da của mình”.
Có cái tâm bình
an và ước muốn xây dựng hòa bình không những với người đồng loại mà còn cả với
thiên nhiên, con người mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực. Có lẽ đây là sứ
điệp mà Đức giáo hoàng Benedicto XVI, nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo hoàn
vũ, muốn nhắn gởi với thế giới trong thông điệp đầu năm của ngài. Người La mã
ngày xưa nói “si vis pacem, para bellum”
(muốn có hòa bình, bạn hãy chuẩn bị chiến tranh).Vị giáo hoàng này lại kêu gọi:
“Muốn có hòa bình, hãy bảo vệ thiên
nhiên”.
Tôi có một kinh
nghiệm đau thương trong quan hệ với súc vật. Nhà tôi có nuôi năm ba con gà mái
để lấy trứng. Đã trồng rau mà còn nuôi gà là điều tối kỵ. Mặc dù tôi đã rào dậu
kỹ lưỡng, nhưng mấy chị gà mái vẫn cứ xé rào để phá nát cái vườn rau của tôi. Một
hôm, không kềm được cơn nóng giận, tôi đã phang nguyên một cành tre vào chị gà
đầu đàn. Hôm sau, thấy con vật nằm một chỗ với một chân sưng vù, nhà tôi trách
nhẹ: “Không biết ngày nào đó, anh có cư xử với em như vậy không?” Thật ra,
không chờ bị nhà tôi trách móc, hành vi bạo động đối với thú vật tự nó cũng đủ
là một hình phạt đối với tôi: tôi cảm thấy bị dằn vặt trong mấy ngày liền! Cứ
nhìn con vật lê lết trong đau đớn, tôi cảm thấy như nhân cách của mình bị xói
mòn. Giờ đây tôi hiểu được tại sao một số nước Tây Phương ban hành luật cấm
hành hạ súc vật. Tôi nhận ra được giá trị của luật cấm sát sanh của Phật
Giáo.Và nhứt là tôi lại càng chia sẻ được
cái tình cảm dạt dào yêu thương của thánh Phanxico thành Assisi, Ý, thời Trung
Cổ đối với thú vật và thiên nhiên nói chung. Vị thánh được mệnh danh là “ sứ giả
Hòa bình” này đã để lại một lời kinh mà, cứ mỗi lần tập trung để cầu nguyện và
đòi hỏi công lý, người công giáo Việt nam ngày nay luôn cất hát lên: “ Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu
và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an
của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp, đang chân lý vào chốn lỗi lầm…”
Tôi nghĩ đây
không chỉ là lời cầu nguyện của các tín đồ của một tôn giáo, mà phải là quyết
tâm của những ai đang tìm kiếm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống này. Chỉ với
cái tâm bình an, nghĩa là quyết tâm yêu thương, tha thứ và xây dựng hòa bình,
con người mới cảm nhận được thế nào là hạnh phúc. Chỉ với cái tâm ấy, tôi mới cảm
thấy đủ thành thực và không ngượng miệng để lập lại công thức “chúc mừng năm mới khang an và hạnh phúc”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét