Thứ Tư, 10 tháng 2, 2016

Năm Mới Khang An và Hạnh Phúc

                          

                                                                       
                                                                             Chu Thập
Tết 2010

Cuộc cách mạng của Internet đã giúp tôi tiết giảm được một lượng lớn những cánh thiệp đầu năm. Nhưng vốn ghét những “thông điệp” chung gởi cho hàng loạt địa chỉ email, nên dịp năm mới tôi thường dành nhiều thì giờ hơn để trải dài “tâm sự”, để thăm hỏi và tri ân  từng bạn bè và người thân. Dù vậy, ngoài lời thăm hỏi chân tình, lúc nào tôi cũng phải kèm theo công thức quen thuộc thường thấy trong các cánh thiệp đầu năm như “cầu chúc một năm mới khang an và hạnh phúc”.Thật ra, với công thức ấy, tôi không chỉ cầu mong an bình và hạnh phúc  cho người khác, mà còn để tự nhắc nhở về niềm hạnh phúc riêng tư mà mình phải không ngừng tìm kiếm.
Có nhiều quyết tâm để làm trong năm mới, nhưng tôi nghĩ, tất cả đều qui về một quyết tâm là phải sống hạnh phúc.
Nhưng bởi hạnh phúc là một điều khó định nghĩa hay đúng hơn là một nghệ thuật cần học hỏi và trau dồi liên tục, cho nên tôi thấy mình cần có những bậc thày để được hướng dẫn. Một trong những bậc thày mà tôi thường tìm đến để học hỏi về nghệ thuật sống hạnh phúc là Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng hiện đang được cả thế giới ngưỡng mộ về sự khôn ngoan và nhân đức. Do đó, đầu năm nay, tôi đọc lại những lời khuyên dạy của ngài trong cuốn sách có tựa đề “Ethics for the New Millennium” (Đạo lý cho thiên niên kỷ mới). Trong chương một của cuốn sách, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng đưa ra nhận xét như sau: “Nghèo hay giàu, học thức hay không, bất luận thuộc sắc tộc nào, nam nữ, theo tôn giáo này hay tôn giáo khác...chúng ta chỉ muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Mỗi một hành động có ý thức của chúng ta có thể xem như lời giải đáp cho một câu hỏi lớn mà tất cả mọi người đều phải đương đầu là: “Làm sao tôi mới được hạnh phúc?”
Quả thật, cả cuộc sống con người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Đối với nhiều người, tiền của và tiện nghi vật chất là điều kiện mang lại hạnh phúc. Người Việt nam chúng ta đã chẳng nói: “có tiền mua tiên cũng được” sao? Nhìn chung, con người ở đâu và thời nào cũng đều đứng ở núi này nhìn sang núi nọ và chạy theo hạnh phúc như một chiếc bóng mà chúng ta cho là đang ẩn nắp đàng sau của cải vật chất hoặc cái đuôi dài của nó là quyền lực và danh vọng.
Có dịp đi lại nhiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra ghi nhận như sau: “Ở khắp mọi nơi, bằng những phương tiện có thể tưởng tượng ra được, người ta nỗ lực để cải thiện cuộc sống. Điều lạ lùng là, tôi có cảm tưởng rằng những người sống trong các quốc gia phát triển vật chất, với trọn cả nền kỹ nghệ của họ, lại ít thỏa mãn, ít hạnh phúc và trong một chừng mực nào đó, lại còn đau khổ hơn những kẻ sống trong các quốc gia chậm tiến nhứt. Thật vậy, nếu so sánh người giàu với người nghèo, chúng ta thường thấy rằng những người không có gì cả, thật ra lại ít lo lắng hơn, mặc dù họ dễ bị truyền lây bệnh hoạn và đau đớn trong thể xác…Điều thường thấy với một mức độ cao và rất phổ biến trong quần chúng của các nước phát triển là các chứng bệnh lo lắng, mất quân bình, ẩn ức, bất định và căng thẳng”
Theo  báo cáo của Viện nghiên cứu về chứng trầm cảm tại quốc gia giàu mạnh nhứt thế giới là Hoa kỳ, có khoảng từ 75 đến 90 phần trăm bệnh nhân đến gặp bác sĩ, đều than phiền về những chứng bệnh về tâm lý hơn là thể lý.
Đức Đạt Lai Lạt Ma hẳn đã biểu đồng tình với thống kê trên đây khi kể lại kinh nghiệm trong một chuyến viếng thăm một quốc gia Tây Phương như sau: “Tôi là khách của một gia đình giàu có, sống trong một ngôi biệt thự rộng rãi khang trang. Tất cả mọi người đều duyên dáng và lịch sự. Các người hầu phục vụ cho từng nhu cầu của họ và tôi bắt đầu nghĩ, có thể đây là bằng chứng khẳng định rằng giàu có là một nguồn hạnh phúc. Các chủ nhân đều có vẻ tự tin thoải mái. Nhưng khi nhìn vào phòng tắm, qua một cánh cửa hé mở, tôi lại thấy một dãy toàn là thuốc an thần và thuốc ngủ. Tôi bị buộc phải nhớ đến cái hố thâm sâu giữa bề ngoài và thực tế nội tâm”
Đầu năm, đọc lại những dòng trên đây của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi càng xác tín rằng hạnh phúc tùy thuộc ở cái “tâm” của con người hơn là những điều kiện vật chất bên ngoài. Hẳn trong ý nghĩa đó mà cụ Nguyễn Du của chúng ta đã phải thốt lên: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Tôi rất tâm đắc với câu chuyện được kể về nhà hiền triết Esope của Hy lạp thời cổ. Ngày kia, ông đến ngồi bên cổng thành Athènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua, dừng lại hỏi ông: “Xin ông cho biết dân tình Athènes như thế nào?” Nhà hiền triết liền hỏi lại: “Xin ông cho biết ông từ đâu đến và dân tình ở đó như thế nào?” Người khách lạ nhíu mày than phiền: “Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày”. Nghe thế, nhà hiền triết thản nhiên trả lời: “Tôi rất lấy làm tiếc để báo cho ông biết rằng rồi ra ông cũng sẽ thấy dân thành Athènes của tôi còn tệ hơn thế nữa”.
Ngày hôm sau, một du khách khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi tương tự: “Dân thành Athènes như thế nào?” Du khách cho biết mình cũng đến từ Argos. Ông nói rằng Argos là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải từ giã để ra đi. Dân ở đó là những người rất tử tế và dễ thương.
Lần này, nhà hiền triết Esope lại nói về dân thành Athenes của mình như sau: “Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng báo cho ông biết rằng ông sẽ thấy dân thành Athènes của tôi cũng tử tế và dễ thương như thế”.
Cũng một con người đó, nhưng có người lại thấy dễ thương, có người lại thấy đáng ghét. Cũng một hoàn cảnh đó, có người phản ứng hòa nhã, có người phản ứng đốp chát. Cũng trong cùng một cảnh vật, có người thấy vui, có kẻ lại kêu buồn chán. “Hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi buồn. Ô hay, chẳng hiểu vì sao, chẳng hiểu vì sao, chẳng hiểu vì sao, tôi buồn” là vậy. Quả thật, khi cái tâm không bình an thì dù có sống trong tiện nghi vật chất và ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, con người cũng sẽ chẳng bao giờ cảm thấy hạnh phúc.
Hiểu theo một cách nào đó, những gì thể hiện ra bên ngoài thường diễn tả trạng thái của nội tâm và ngược lại. Trong lúc lái xe, tôi thích dùng thì giờ để quan sát những tài xế khác, như một cách tìm hiểu tâm của họ. Trong khi một tài xế có thể thản nhiên trước những khiêu khích hay cách lái ẩu của người khác thì với một tài xế khác, chỉ cần bị xe khác vượt mặt hay bóp kèn, cuộc “tranh hùng” có thể lập tức xảy ra. Người có tâm bình an tuy bực mình nhưng không chấp nê vì họ biết hậu quả sẽ ra sao. Chuyện chỉ vì những “tranh chấp trên đường lộ” mà đưa đến vong mạng là chuyện cơm bữa trong cái đời sống mà chúng ta gọi là “văn minh” này. Nhứt là ở Việt Nam, nơi mà “hạnh phúc” luôn đi kèm với tên nước thì khỏi nói. Nếu người ta hạnh phúc thì tại sao lúc nào cũng lái xe theo cung cách chụp giựt, gây hấn, sống chết mặc bay như vậy?
Cái tâm bình an, trước hết, theo thiển ý của tôi, phải là một cái tâm không chất chứa hận thù, ghen ghét, đố kỵ. Tôi không ngạc nhiên tại sao một người như đồ tể Mao Trạch Đông, người đã sát tế trên 30 triệu người đồng bào ruột thịt của mình trên bàn thờ xã hội chủ nghĩa, đã bị chứng mất ngủ kinh niên. Trong cuốn hồi ký có tựa đề “Cuộc đời bí mật của Mao Trạch Đông”, người đã từng làm bác sĩ riêng của ông trong hơn 20 năm là Lý Phục Hy tiết lộ rằng Mao Trạch Đông mất ngủ liên tục, lấy ngày làm đêm và phải dùng đến thuốc ngủ mới có thể ngủ li bì trong hai ngày liền.
Người không thua kém Mao Trạch Đông bao nhiêu trong việc tàn sát đồng bào ruột thịt của mình là Stalin cũng suốt một đời sống trong nghi kỵ đối với mọi người. Một người suốt đời gieo rắc hận thù làm sao có thể có được cái tâm bình an?
Đọc khẩu hiệu “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” luôn được thêm vào tên nước “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam”, người ta chỉ có thể phì cười mà thôi, bởi vì hạnh phúc của con người đâu có tùy thuộc vào một ý thức hệ, nhứt là một ý thức hệ có chủ trương đấu tranh giai cấp, khích động hận thù và nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và những “thế lực thù địch”. Biến cố mới xảy ra gần đây tại giáo xứ Đồng Chiêm, Hà nội không thể không khiến cho người ta phải nêu lên câu hỏi: liệu những kẻ hung hãn xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người khác khi đập phá Thánh Giá và nhứt là hành hung người dân lành một cách tàn bạo dã man có thể cảm thấy hạnh phúc không? Có lẽ họ quên mất câu nói thời danh của ông tổ của họ: “Chỉ có súc vật mới quay mặt làm ngơ trước nỗi khổ của người đồng loại để chăm sóc cho bộ da của mình”.
Có cái tâm bình an và ước muốn xây dựng hòa bình không những với người đồng loại mà còn cả với thiên nhiên, con người mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực. Có lẽ đây là sứ điệp mà Đức giáo hoàng Benedicto XVI, nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo hoàn vũ, muốn nhắn gởi với thế giới trong thông điệp đầu năm của ngài. Người La mã ngày xưa nói “si vis pacem, para bellum” (muốn có hòa bình, bạn hãy chuẩn bị chiến tranh).Vị giáo hoàng này lại kêu gọi: “Muốn có hòa bình, hãy bảo vệ thiên nhiên”.
Tôi có một kinh nghiệm đau thương trong quan hệ với súc vật. Nhà tôi có nuôi năm ba con gà mái để lấy trứng. Đã trồng rau mà còn nuôi gà là điều tối kỵ. Mặc dù tôi đã rào dậu kỹ lưỡng, nhưng mấy chị gà mái vẫn cứ xé rào để phá nát cái vườn rau của tôi. Một hôm, không kềm được cơn nóng giận, tôi đã phang nguyên một cành tre vào chị gà đầu đàn. Hôm sau, thấy con vật nằm một chỗ với một chân sưng vù, nhà tôi trách nhẹ: “Không biết ngày nào đó, anh có cư xử với em như vậy không?” Thật ra, không chờ bị nhà tôi trách móc, hành vi bạo động đối với thú vật tự nó cũng đủ là một hình phạt đối với tôi: tôi cảm thấy bị dằn vặt trong mấy ngày liền! Cứ nhìn con vật lê lết trong đau đớn, tôi cảm thấy như nhân cách của mình bị xói mòn. Giờ đây tôi hiểu được tại sao một số nước Tây Phương ban hành luật cấm hành hạ súc vật. Tôi nhận ra được giá trị của luật cấm sát sanh của Phật Giáo.Và  nhứt là tôi lại càng chia sẻ được cái tình cảm dạt dào yêu thương của thánh Phanxico thành Assisi, Ý, thời Trung Cổ đối với thú vật và thiên nhiên nói chung. Vị thánh được mệnh danh là “ sứ giả Hòa bình” này đã để lại một lời kinh mà, cứ mỗi lần tập trung để cầu nguyện và đòi hỏi công lý, người công giáo Việt nam ngày nay luôn cất hát lên: “ Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đang chân lý vào chốn lỗi lầm…”
Tôi nghĩ đây không chỉ là lời cầu nguyện của các tín đồ của một tôn giáo, mà phải là quyết tâm của những ai đang tìm kiếm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống này. Chỉ với cái tâm bình an, nghĩa là quyết tâm yêu thương, tha thứ và xây dựng hòa bình, con người mới cảm nhận được thế nào là hạnh phúc. Chỉ với cái tâm ấy, tôi mới cảm thấy đủ thành thực và không ngượng miệng để lập lại công thức “chúc mừng năm mới khang an và hạnh phúc”.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét