Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Chậm mà Chắc


Chu Thập
3.9.11


Trồng cây mà thấy nó sinh hoa kết trái đã là vui rồi, mà thưởng thức được hoa quả đầu mùa thì càng thích thú hơn. Năm vừa rồi, tôi đã có được niềm vui thích ấy khi nếm được cái hương vị thơm ngon của một số hoa trái trong vườn như cam navel, quýt emperor, nectarine, ổi, thanh long và khế. Năm nay, tôi lại có thêm vài trái bí đỏ mà người miền Trung tôi gọi là bí rợ. Cái giống bí này cứ tưởng dễ trồng, không ngờ hễ đậu trái thì lại èo uột. Nhưng năm nay, không rõ do thời tiết và điều kiện đất đai như thế nào mà tôi lại “trúng mùa”. Lạ quá, loại bí tôi trồng khác với các thứ bí tôi thường mua trong các siêu thị: nó vừa nhỏ trái vừa dẻo, vừa thơm lại vừa có hương vị của khoai lang bùi. Thực ra, theo hình vẽ trên bìa của bị hạt giống tôi mua, tôi thấy chẳng có khác biệt nào cả. Suy nghĩ mãi, tôi mới nghiệm ra rằng sở dĩ cái loại bí của tôi cũng như các thứ trái cây khác trong vườn có được hương vị thơm ngon và “mặn mà” là bởi vì chúng nó lớn chậm, nghĩa là có đủ thời giờ để lớn theo đúng tiếng gọi của thiên nhiên.
Bây giờ thì tôi mới hiểu được câu nói của ông bà chúng ta: thuận thiên giả tồn. Cứ để cho thiên nhiên làm việc thì mọi sự đều tốt đẹp. Trái lại, đi ngược lại với thiên nhiên hay bắt thiên nhiên phải chiều theo ý muốn của con người thì thế nào cũng gặp trục trặc. Tựu trung, thiên nhiên vận hành theo qui luật “tứ thời bát tiết”, trong khi đó cái gì con người cũng muốn đốt giai đoạn.
Con gà bình thường cần có ít nhứt 5, 6 tháng mới thực sự trưởng thành và thịt của nó mới thơm ngon và lành mạnh. Người Việt nam chúng ta chuộng gà thả rong” hay “đi bộ” là thế. Đàng này, trong kỹ nghệ chăn nuôi ngày nay, người ta rút ngắn tiến trình trường thành của gà lại chỉ còn hơn một tháng. Thành ra, trông thì to xác, nhưng thực tế con gà được bày bán trong siêu thị hay được chiên xào trong các tiệm ăn, thực chất chỉ là một con gà con. Ăn thịt một con gà con to xác cũng có nghĩa là tiếp thu những hóa chất mà chính nó không có đủ thời gian để tiêu hóa. Mà chúng cũng không thể sống lâu hơn vì xương thì quá yếu mà phải “na” cái thân không dưới 4 kýlô. Thực là tội nghiệp!
Bao nhiêu hoa quả, trái cây được bày bán trong các siêu thị cũng đồng một số phận với gà công nghiệp. Chúng nó cũng được thúc ép để lớn nhanh cho nên không có đủ thời giờ để tiêu hóa các thứ hóa chất và tiến trình quang hợp từ ánh mặt trời.
Thời buổi này, cái gì cũng nhanh. Bởi vì trồng trọt và chăn nuôi nhanh cho nên ăn cũng phải nhanh. Vừa đứng vừa ăn, vừa chạy vừa ăn, vừa lái xe vừa ăn: đó là hình ảnh của con người thời đại mà các tiệm ăn nhanh (fast food) có thể gợi lên cho chúng ta.
Không có giờ để nhai và tiêu hóa thức ăn, con người thời đại cũng chẳng có giờ để tiêu hóa thông tin được “oanh tạc” vào mắt và tai từng giây từng phút mỗi ngày. Chưa bao giờ kỹ thuật truyền thông tiến nhanh cho bằng ngày nay và dĩ nhiên, chưa bao giờ con người bị “bội thực” về thông tin cho bằng ngày nay. Đầu óc thì “đầy phè” kiến thức chưa kịp tiêu hóa đưa đến việc trái tim trống rỗng sự hiểu biết và minh triết.
Trong một thế giới mà cái gì cũng buộc phải tiến nhanh, sự trưởng thành của con người dường như cũng bị đốt giai đoạn. Trẻ con ngày nay chẳng khác nào một con gà công nghiệp: người ta nhồi nhét vào đầu óc chúng những điều lẽ ra chỉ dành cho người lớn. Chúng được học đủ thứ hầm bà lằng kiến thức trước khi tập đứng tập đi. Có khi chúng được ngợi khen, được lên báo như là một thần đồng vì học ngoại ngữ như “ăn cơm sườn” trước khi biết nói những chữ căn bản “xin vui lòng, xin lỗi, cám ơn” bằng tiếng mẹ đẻ. Người ta tập cho chúng làm người lớn trước trở thành một thiếu nữ, thiếu niên. Tôi nghĩ đến các cuộc thi hoa hậu trẻ con.Thật tội nghiệp cho những thiên thần thơ dại phải khoác vào người loại y phục “người nghèo” của người lớn và làm những điệu bộ gợi lên những nụ cười thương hại hơn là tán thưởng. Tôi cũng nghĩ đến những cô bé mới 10 tuổi đã phải sánh vai của những người mẫu trong những y phục chỉ nên mặc trong phòng the hơn là nơi công cộng.
Người ta nghĩ đến lợi nhuận trước mắt hơn là sức khỏe tinh thần, sự trưởng thành bình thường và  tương lai của trẻ em. “Giới kỹ nghệ đang tạo ra một thế hệ tiêu thụ mới gọi là “tween age”, lứa tuổi từ 6 đến 12 mà ở đây chúng ta tạm dịch là “chuẩn thiếu niên”. Nếu đi dạo một vòng quanh các tiệm thời trang, quanh các sạp sách báo và chịu khó để ý thì chúng ta sẽ tìm thấy vô khối sản phẩm dành cho lứa tuổi này, những thứ mà truớc đây chừng 15 năm chúng ta không thể tìm thấy như áo ngực (bra) độn mút dành cho các em bé 6,7 hay 8, 9 tuổi.” (Phạm Hiếu, Việt luận 16/8/11)
Kinh doanh như thế quả là một  thứ “bạo hành” xúc phạm đến sự trong trắng và hồn nhiên của trẻ em. Bên cạnh lối khai thác rẻ tiền ấy là vô số những hình ảnh bạo động mà truyền thông toàn cầu ngày nay nhồi nhét vào tâm hồn non dại của trẻ thơ. Theo một cuộc nghiên cứu của UNESCO  (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc), sự tiếp cận của trẻ con với truyền thông ngày càng sớm và gia tăng. Trước kia, sách vở, báo chí, tạp chí, phim ảnh, phát thanh, băng hình và truyền hình dành cho trẻ con đã là nhiều. Nay còn có thêm những kênh truyền hình, hàng ngàn băng hình và trò chơi điện tử và hàng triệu triệu trang mạng Internet. Trẻ con ngày nay ngụp lặn trong thế giới ảo. Hiện tượng này không chỉ có trong các nước phát triển mà còn gia tăng trong mọi xã hội trên khắp thế giới. Kết quả là trẻ con ngày nay ngày càng bạo động hơn. Trong hai năm 1996 và 1997, tổ chức Unesco đã thực hiện một cuộc khảo sát về ảnh hưởng của truyền thông đối với bạo động nơi trẻ em. Tham dự cuộc khảo sát có trên 5000 trẻ em 12 tuổi tại 93 quốc gia, đại diện cho mọi vùng, mọi tầng lớp xã hội trên thế giới. Mục đích của cuộc khảo sát là tìm hiểu vai trò của truyền thông trong cuộc sống của trẻ em và mối quan hệ giữa bạo động trong truyền thông và cách cư xử hung hãn của trẻ em.
Cuộc khảo sát đã cho thấy: bất luận sống ở thành thị hay thôn quê, hễ nơi nào được điện hóa, thì có đến 93% trẻ em thường xuyên xem truyền hình và trung bình mỗi ngày 3 tiếng đồng hồ. Tính ra, số giờ các em ngồi trước màn ảnh nhiều hơn số giờ dành cho bất cứ sinh hoạt nào ngoài trường học.
Cuộc khảo sát cũng cho thấy truyền hình, các băng hình, trò chơi điện tử buộc các em phải tiếp xúc với những hình ảnh bạo động hầu như mỗi ngày. Tại rất nhiều nước, trung bình cứ mỗi giờ, trên màn ảnh truyền hình, trẻ em phải xem từ 5 đến 10 cảnh bạo động. Điều đáng lo ngại là những “anh hùng” trong các phim ảnh bạo động luôn được trẻ em xem như một mẫu mực.
Theo cuộc khảo sát, các nhân vật bạo động trong phim ảnh luôn thu hút các thiếu nhi nam. Có đến 88% trẻ em trên thế giới đều biết nhân vật “Terminator” do tài tử vai u thịt bắp Arnold Schwarznegger thủ diễn. Các thiếu niên nam chọn các nhân vật đánh đấm trong phim ảnh làm thần tượng hơn bất cứ nhân vật nào khác, nhứt là trong những khu phố có tỷ lệ bạo động cao và những vùng có chiến tranh.
Ngoài ra, cuộc khảo sát cũng nhìn nhận rằng các hình ảnh bạo động trên màn ảnh truyền hình được trẻ em lập lại trong cuộc sống hằng ngày. Đối với nhiều trẻ em, bạo động trên truyền hình và phim ảnh và bạo động trong cuộc sống cũng là một. Các em xem đó như cách thế hữu hiệu nhứt để giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
Trẻ con ngày nay chẳng khác nào một thứ trái cây bị giú ép: vỏ chín vàng, nhưng ruột bên trong thì chua hay thối. Tình trạng bị giú ép ấy có thể kéo dài cả một đời người. Tuổi đời có thể chồng chất, nhưng con người vẫn cứ mãi là một đứa trẻ khờ dại và do đó, cư xử một cách thiếu trách nhiệm đối với bản thân, người thân và xã hội.
Tác giả Phạm Hiếu đã viết một cách chí lý: “Ở các nước “bán khai” như Phi Châu, Trung Đông, các lãnh tụ khủng bố hay phiến quân giết tuổi thơ ở đó bằng cách dí vào tay chúng một khẩu AK-47 và nhồi vào đầu chúng những lý tưởng cực đoan. Trong khi đó thì ở phương Tây “văn minh”, người ta khôn hơn, chỉ “giết” chúng bằng cách tập cho chúng làm người lớn, chỉ để trở thành một thứ máy tiêu thụ hàng hóa do mình sản xuất ra.” (báo đã dẫn)
Người xưa ít có kiến thức, nhưng lại giàu khôn ngoan và biết sống “thuận thiên”. Lúc còn nhỏ, tôi thấy ở nhà quê tôi, cha tôi chỉ trồng các giống lúc địa phương mỗi năm tối đa hai mùa. Vậy mà lúa lúc nào cũng đầy bồ. Thời Đệ nhị Cộng hòa, người ta du nhập giống lúa “thần nông” do viện IRRI (Viện quốc tế nghiên cứu lúa tại Phi luật tân) phát minh. Giống lúa này có năng xuất cao, có thể trồng đến 3, 4 vụ mỗi năm. Ai cũng mừng vì có lúa “thần” cứu đói. Nhưng muốn giàu nhanh thì phải trả một giá đắt. Người ta phải sử dụng tối đa phân hóa học đã đành, mà giống lúa này lại cũng dễ bị sâu rầy tấn công, cho nên không thể không dùng thuốc trừ sâu bọ. Kết quả là: đất đai ngày càng cạn kiệt, phân hóa học làm cho đất đai khô cằn và thuốc trừ sâu bọ cũng làm ô nhiễm nguồn nước, môi sinh bị đe dọa.
Sau 75, người Việt nam thích chạy theo “phong trào”. Thấy một vài người trúng nho, bao nhiêu người liền chặt phá vườn tược để trồng nho. Thấy một vài người trúng tôm, bao nhiêu người cũng dẫn nước mặn vào ruộng lúa và nuôi tôm. Nhưng “phong trào” là thứ lên nhanh mà cũng xuống nhanh. Trồng nho mà không biết kỹ thuật và thiếu phương tiện thì mất mùa là chuyện đương nhiên. Cũng thế, thấy người ta nuôi tôm, mình cũng nuôi, tưởng ăn dễ và nhanh, mà không biết rằng đây là một ngành chăn nuôi đòi hỏi nhiều kỹ thuật và phương tiện. Rốt cục, nghề trồng nho thất bại, nhiều người tiếc cái vườn cây ăn trái. Tôm chết hàng loạt, nhiều người mất cả vốn lẫn lời, chỉ còn biết đứng nhìn những mảnh ruộng phì nhiêu ngày nào nay biến thành biển mặn và hôi thối.
Mới đây, các bạn “meo đàn” cũng gởi cho tôi xem một hình ảnh phải nói là “khủng khiếp” về việc thúc ép rau muống lớn nhanh: biết rau muống là một loại rau có thể hút vào thân bất cứ hóa chất độc hại nào, người ta liền pha một loại dầu nhớt đặt biệt để phun vào cây rau đang lớn. Chỉ sau 3 ngày là ruộng rau muống trở nên xanh tươi và lớn đủ để cắt đem đi bán. Người tiêu thụ sẽ rước vào thân một lượng chất độc hại chỉ vì cái phương pháp làm ăn “nhanh” ấy.
Người ta thích ghi nhận những thành tích nhanh nhất vào sách kỷ lục thế giới dù đó là những thành tích “khủng khiếp”. Chẳng hạn như kỷ lục ăn nhiều trong thời hạn ngắn nhất. Tôi xem mà nhớ thời còn nhỏ, là một đứa nhỏ chưa có đủ “nhân vị” để được ngồi đồng bàn với người lớn, tôi và mấy anh em chỉ được cho chén cơm chan với canh hay may mắn lắm được một chén cơm chiên mỡ, bưng ra ngoài hè mà “và” cho nhanh. Đứa nào cũng mắc cái tật “ăn nhanh”. Ăn nhanh để còn được chạy chơi. Nhìn thấy mấy đứa bạn hàng xóm tụm năm tụm ba là tôi chỉ muốn tống hết chén cơm vào miệng. Nhưng “nhận” cơm vào nhiều quá, tôi bị mắc nghẹn. Cuối cùng tôi vừa trợn mắt vừa lâm cảnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Cha tôi thấy vậy, liền lấy tay vỗ mạnh vào lưng tôi để “giải” nghẹn. Thế là con chó hưởng phần. “Thoát chết” nhưng tôi không còn lòng dạ nào ăn lại. Cũng không còn sức để chay chơi. Đành chịu bụng đói. Cha tôi cười cười nói: “Muốn ăn nhiều phải ăn ít nha con.”
Bao nhiêu năm, tôi không còn dám ăn nhanh như hôm đó và tôi cũng không để ý gì đến câu cha tôi nói. Với trí óc trẻ nhỏ, tôi chỉ nghĩ đến cảnh “mắc nghẹn” của tôi và nghĩ là ý nghĩa của câu cha nói chỉ đơn giản như vậy. Nhưng giờ đây, nghĩ lại, tôi mới thấy cái nghịch lý trong câu nói thật thâm thúy: Nếu tôi chịu khó ăn ít mỗi ngày, tôi mới có cơ hội sống lâu. Từ chỗ sống lâu thì có nghĩa là suốt đời cộng lại tôi sẽ được ăn nhiều.
Từ chuyện “ăn” nhảy qua những chuyện khác của đời sống: kiếm tiền, tiêu xài, học hành, giải trí...tôi thấy câu nói của cha tôi đều có lý. Nếu biết áp dụng chiến thuật chậm mà chắc tôi có thể có tất cả những thứ trên mà không cần phải hy sinh những gì quý giá nhứt của đời sống là hạnh phúc gia đình, sức khỏe và thời giờ.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét