29.5.15

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo “Gavroche”, một nguyệt san chuyên về
các vấn đề của Thái Lan, Lào và Cao Miên, một chuyên gia về Phật Giáo, ông
Vichak Panich, đã đưa ra một số nhận định về Phật Giáo tại Thái Lan. Là một phật
tử thuộc tông phái Vajirayana, tức tông phái được thực hành nhiều nhất tại Tây
Tạng và Nepal và từng du học tại Hoa Kỳ, ông Panich chủ trương phải có sự tách
biệt giữa Phật Giáo và Nhà Nước.
Hiện có trên 90 phần trăm dân chúng Thái theo Phật Giáo. Thái Lan quả là một
nước Phật giáo. Theo Hiến Pháp nước này, quốc vương phải là một phật tử và đồng
thời là người bảo vệ Phật Pháp. Người ngoại quốc thường gọi Thái Lan là “Đất nước
của những chiếc áo cà sa vàng”. Có hai điều đập vào mắt họ khi đặt chân đến
Thái Lan. Một là các chùa chiền với lối kiến trúc đặc trưng của Thái Lan. Hai
là sự hiện diện hầu như khắp nơi của các tu sĩ Phật Giáo, nhất là vào lúc bình
minh là thời điểm họ ra đi khất thực. Hai hình ảnh trên đây nhắc nhở cho du
khách ngoại quốc rằng Thái Lan là một xứ sở nơi Phật Giáo ảnh hưởng đến toàn bộ
cuộc sống của người dân. Văn hóa, nghệ thuật, văn chương, triết lý sống, luân
lý đạo đức và ngay cả chính trị cũng đều xuất phát từ Phật Giáo.
Vậy thì “Đâu là chỗ đứng của Phật Giáo trong xã hội Thái Lan và đâu là qui
chế của tôn giáo này đối với Nhà Nước?” Trả lời cho câu hỏi này, ông Panich đã
đưa ra một hình ảnh khá lý thú như sau: đối với quốc gia, quốc vương là đầu, Phật
Giáo là trái tim và xứ sở là thân mình. Ông giải thích: “Ngay từ lúc nhỏ, là
người Thái, chúng tôi đã được tiêm nhiễm về vấn đề này, nhất là trong trường học.
Người ta dạy chúng tôi đừng bao giờ đặt lại vấn đề về 3 cột trụ của Nhà Nước là
“Quốc gia, Tôn giáo và Quân chủ”. Dĩ nhiên, theo ông Panich, tôn giáo ở đây phải
được hiểu là Phật Giáo. Tự do tôn giáo chỉ được công bố và tôn trọng trên lý
thuyết mà thôi. Trong thực tế, Phật Giáo vẫn là tôn giáo duy nhất được hiểu như
là tôn giáo và được xem như là một trong 3 cột trụ của xứ sở. Theo Hiến Pháp,
quốc vương phải là “đệ nhất” Phật tử giữa các Phật tử. Ông là người bảo hộ, là
quan thày của Phật Giáo. Về phần mình, các sư sãi được xem như những người phục
vụ chế độ quân chủ. Có thể gọi họ là những công chức triều đình. Được dân chúng
trả lương xuyên qua các cúng dường, họ phải thuần phục ý thức hệ vương giả.
Ông Panich khẳng định: Thái Lan không phải là một Nhà nước thế tục. Phật
Giáo được bảo vệ và tài trợ bởi các Bộ Văn Hóa và Giáo Dục. Nhưng điều đó không
hề có nghĩa là Nhà Nước kiểm soát Phật Giáo. “Sangha”, tức cộng đồng các tu sĩ
Phật Giáo và hệ thống thăng chức trong Phật Giáo đều nằm bên ngoài sự kiểm soát
của Nhà Nước. Nếu, trên nguyên tắc, vị tăng thống tối cao của Phật Giáo Thái
Lan được nhà vua bổ nhiệm theo đề nghị của thủ tướng, thì trong thực tế, chính
Cộng đồng các tu sĩ là cơ quan quyết định về việc tuyển chọn ứng viên. Như vậy,
Phật Giáo quả là “một Quốc gia trong Quốc gia”, nghĩa là hoàn toàn tự trị. Năm
1932, Thủ tướng Pridi Panomyong đã tìm cách dân chủ hóa Phật Giáo, nhưng không
thành công. Kể từ khi các quốc vương Rama IV (1851-1868) và Rama V (1869-1910),
ban hành các biện pháp để tổ chức và kiểm soát Phật Giáo, tôn giáo này đã không
hề trải qua bất cứ một cuộc cải tổ nào.
Phật Giáo vẫn mãi mãi là tôn giáo của tuyệt đại đa số người dân Thái. Dù
thuộc bất cứ giai tầng xã hội nào, hầu như người Thái nào cũng đều là một phật
tử thuần thành. Vào cuối thập niên 1990, nhiều nhóm Phật Tử, được phần lớn người
dân Thái ủng hộ, đã đòi hỏi quyền phải lấy Phật Giáo làm Quốc giáo của Thái
Lan. Ông Panich đã giải thích về hiện tượng này như sau:
“Trước hết, Phật Giáo hiện đang được thực hành tại Thái Lan là Phật Giáo Tiểu
Thừa (Theravada). Đây là tông phái có chủ trương cá nhân chủ nghĩa hơn các tông
phái Phật Giáo khác. Trái với Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) hiện đang được thực
hành tại Đông Á và Việt nam và Phật Giáo Vajrayana của Tây Tạng, Phật Giáo Tiểu
Thừa chú trọng đến sự giải thoát cá nhân. Do đó, tông phái này không có những
giáo thuyết xã hội. Cũng vậy, tông phái này không dành nhiều chỗ đứng cho những
cảm xúc về sự sống chung như tình yêu và sự cảm thông. Đối với Phật giáo Tiểu
thừa tại Thái Lan, cá nhân chính là điểm qui chiếu.
Như thế, Phật Giáo Tiểu Thừa có thể được dễ dàng “sử dụng” trong xã hội
tiêu thụ, nhất là khi nói đến “phúc lợi cá nhân”, “sự triển nở của cá nhân” v.v
vốn là những ý niệm thời thượng hiện nay.
Đây chính là lý do tại sao ngày nay có hiện tượng đám đông Thái đang đổ xô
về các trung tâm thiền niệm và các chùa chiền để thanh tẩy hoặc để được giải
thoát khỏi đau khổ như mất một người bạn hoặc mất việc làm. Những người Thái
tìm đến các trung tâm này đều là những người muốn có một giải pháp tức khắc cho
những vấn đề của họ và Phật Giáo Tiểu Thừa như được thực hành - một cách sai lạc
- tại Thái Lan đang mang lại cho họ một giải pháp như thế.”
Ngay cả các chính trị gia và các giai nhân tài tử cũng tìm đến các tu viện
Phật Giáo để tịnh niệm. Theo ông Panich, các tài tử điện ảnh và ca sĩ thường
vào chùa để thanh tẩy về một số những hành động tai tiếng của họ như phá thai,
ngoại tình. Riêng các chính trị gia thì luôn có tính toán khi vào tu trong chùa.
Như trường hợp ông Suthep Taugsuban. Ông Suthep là một dân biểu Quốc hội đại diện
cho tỉnh Sura Thani, miền Nam Thái Lan. Cho đến năm 2011, ông là tổng bí thư của
Đảng Dân Chủ và phó thủ tướng dưới thời thủ tướng Abhisit Vejjajiva. Nhưng tháng
11 năm 2013, ông rời khỏi Quốc Hội, ra khỏi Đảng Dân Chủ và đứng ra thành lập Ủy
ban Cải tổ Dân chủ để tổ chức những cuộc biểu tình chống lại nữ Thủ tướng
Yingluck Shinawatra. Sau cuộc đảo chính ngày 22 tháng 5 năm 2014, ông bị chính
quyền quân sự bắt giữ và quản thúc. Bốn ngày sau ông được trả tự do và hai
tháng sau vào chùa tu. Khoác vào chiếc áo cà sa, ông Suthep nhắm đến 2 mối lợi. Trước hết, trở thành một “khon di”, tức một phật tử tốt,
ông sẽ được mọi người đề cao và kính trọng. Mối lợi thứ hai mà cuộc sống tu trì
mang lại cho ông là ông được bảo vệ khỏi những cuộc tấn công của dân chúng, nhất
là những người đã từng ủng hộ nữ Thủ tướng Yingluck Shinawatra, vì họ biết rằng
chính ông là người đã tổ chức những cuộc biểu tình để lật đổ bà. Theo ông
Panich, ông Suthep đã tính toán rất khéo léo: con đường tu trì chỉ là một bước chuẩn
bị để trở lại chính trường.
Được người dân Thái xem như một “khon di”, tức một phật tử tốt, là điều mà
rất nhiều chính trị gia Thái mong ước, mặc dù giáo lý của Phật Giáo không hề nhắc
đến hình tượng này. Trong lịch sử Thái Lan, những tư tưởng của Phật Giáo thường
được sử dụng để thực hiện các cuộc đảo chính. Chỉ cần nói rằng một nhà lãnh đạo
không phải là một “khon di” cũng đủ có
lý do để lật đổ người đó. Cựu Thủ tướng Thaksin là một thí dụ điển hình. Ông bị
lật đổ một phần vì không được xem như một “khon di”.
Ngoài ra, theo ông Panich, các cuộc đảo chính tại Thái Lan cũng được biện
minh bởi điều mà Phật Giáo thường gọi là “nghiệp chướng” (Karma). Nếu cuộc đảo
chính thành công và nếu người đang cầm quyền có bị lật đổ thì cũng do nghiệp
chướng mà thôi. Ông Panich cho rằng Phật Giáo Tiểu Thừa ở Thái Lan có một cái
nhìn cứng nhắc và hạn hẹp về nghiệp chướng. Giáo lý Phật Giáo về nghiệp chướng
thật rõ ràng: bất cứ ai chấp nhận nghiệp chướng, nghĩa là địa vị của mình trong
xã hội, cũng đều phải tự giải thoát khỏi nó. Ngoài ra, bên cạnh nghiệp chướng
cá nhân, nghiệp chướng cũng có tính cách
xã hội. Thái Lan có một nghiệp chướng xã hội xấu chồng chất trong nhiều năm do
các cuộc bạo động. Chính vì thế mà ông Panich cho rằng Thái Lan đang ở trong một
vòng lẩn quẩn của bất ổn chính trị và đảo chính. Người Thái cần phải ý thức về
sự hiện hữu của nghiệp chướng xã hội này mới mong tự giải thoát khỏi nó.
Về các cuộc bạo động, dường như “Sangha”, tức cộng đồng tu sĩ Phật giáo,
không bao giờ bày tỏ lập trường và lên án. Tại Thái Lan, các tu sĩ Phật giáo
không xuất hiện như những tác nhân trong việc thay đổi xã hội, cũng như không
phải là đại sứ của chủ trương bất bạo động. Khác với các tu sĩ Phật giáo Sri
Lanka, Lào và Miến Điện, các tu sĩ Phật giáo Thái Lan từ chối đảm nhận vai trò
chính trị và xã hội. Theo ông Panich, có nhiều lý do giải thích thái độ không dấn
thân này của các tu sĩ Phật giáo Thái Lan.
Trước hết, một trong những giáo lý nền tảng của Phật giáo là sự từ bỏ của cải
vật chất, xa lánh trần thế. Như vậy, do đòi hỏi ấy, tất nhiên người tu sĩ Phật
giáo không can dự vào chính trị. Kế đó, Phật giáo Tiểu thừa là tông phái theo
cá nhân chủ nghĩa hơn các tông phái khác. Tông phái này không quan tâm đến các
bất công xã hội, sự bình đẳng giữa các phái tính hay khoảng cách giàu nghèo. Dù
vậy, tại Sri Lanka hay Miến Điện, là những quốc gia có đông dân số theo Phật
giáo Tiểu thừa, các tu sĩ Phật giáo lại rất tích cực và hăng say hoạt động cho
dân chủ, nhân quyền và công lý. Sở dĩ các tu sĩ Phật giáo Thái đã không bao giờ
can dự vào chính trị là vì những mối giây liên hệ mật thiết gắn liền cộng đồng
tu sĩ với chế độ quân chủ. Các tu sĩ Phật giáo là những người rất bảo hoàng:
Hoàng gia và Phật giáo là hai thực thể bất khả phân ly tại Thái Lan. Cũng như
các thành viên của hoàng gia, các tu sĩ Phật giáo được xem như những người đứng
bên ngoài hệ thống chính trị của quốc gia. Như vậy, các tu sĩ Phật giáo và
hoàng gia không thể bỏ phiếu hoặc ra ứng cử vào bất cứ chức vụ công quyền nào.
Và cũng như các thành viên của hoàng gia, các tu sĩ là những người rất được
kính trọng: có cả một thứ ngôn ngữ riêng mà người dân cần phải sử dụng mỗi khi
nói đến họ hoặc ngỏ lời với họ. Do đó, họ không cảm thấy mình là “đại diện” của
dân chúng, mà “đứng ở trên dân chúng”. Họ chỉ là những người truyền dạy “Dharma”
hay “Tham” tức Phật Pháp mà thôi.
Nhưng một lần nữa, theo ông Panich, tại Thái Lan, Phật Pháp lại bị hiểu sai
và lạm dụng. Cũng như ý niệm về nghiệp chướng, Phật Pháp đã bị lèo lái vào những
mục đích chính trị để biện minh cho các ý đồ của các “khon di” trong việc lật đổ
những người đã được dân chúng bầu lên.
Chính vì thế mà ông Panich chủ trương phải có sự tách biệt rõ ràng giữa Nhà
Nước và Tôn Giáo tại Thái Lan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét